Phụng Vụ - Mục Vụ
Khoảng cách
+ GM G.B. Bùi Tuần
11:53 16/02/2008
KHOẢNG CÁCH
Những ngày Tết, tôi được nhiều lời mừng chúc. Lời chúc mừng nào cũng hướng về tương lai. Tâm tình trao tặng nhau, cho dù tốt đẹp đến mấy, vẫn không cản được cảm nghĩ của tôi về khoảng cách.
Tôi cảm thấy mình khác xa trước. Giữa nay và trước có một khoảng cách sâu rộng. Trước là trẻ, nay là rất già.
Chính khoảng cách riêng tư này dẫn tôi nhìn vào một số khoảng cách khác. Những khoảng cách này đang là sự kiện xã hội tôn giáo hôm nay, nhưng đã được báo trước trong Kinh Thánh.
1/ Khoảng cách giữa giàu và nghèo
Sự kiện nổi bật trong Tết vừa qua có lẽ là khoảng cách giữa giàu và nghèo.
Giàu rất giàu, nghèo rất nghèo.
Khoảng cách về của cải là khủng khiếp. Có người làm chủ mấy ngàn tỷ. Đang khi có người tìm tiền mua gạo cho một ngày mà không sao kiếm đủ.
Khoảng cách về tâm lý là thê thảm. Bên thì tự hào mở sang thế giới bạn bè và các tầng lớp xã hội. Bên thì tự rút về thân phận cô đơn, buồn tủi.
Khoảng cách về dự kiến là rất ảm đạm. Giàu thì chắp cánh bay xa bay cao. Nghèo thì bị bó chân bó tay vào những mơ ước nhỏ nhoi, đôi khi còn bị dồn xuống hố thất vọng và tuyệt vọng.
Khoảng cách giàu nghèo hôm nay có thể được nhìn bằng nhiều cách. Cách nhìn mang ý nghĩa nhất là nhìn qua dụ ngôn Chúa Giêsu đã đưa ra về người phú hộ và người hành khất Ladarô.
Người phú hộ mặc toàn đồ sang trọng, ăn toàn những món quý mắc tiền. Còn người hành khất Ladarô thì rách rưới, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng nhà phú hộ, bạn với mấy con chó đói.
Sau này, hai người cùng chết. Trong thế giới bên kia, số phận đổi ngược. Người phú hộ xuống hoả ngục, ông ăn mày được lên thiên đàng. Bởi vì lúc còn sống, người phú hộ đã sống ích kỷ thất đức, còn người ăn mày đã chịu thử thách với lương tâm trong sáng (x. Lc 16,19-31).
Hy vọng khoảng cách đau buồn trên đây tại Việt Nam hôm nay chỉ là lẻ tẻ. Nhưng, theo tôi, cái lẻ tẻ đó vẫn rất đau lòng.
2/ Khoảng cách giữa có với là
Tết năm nay, sự xung đột giữa có và là thực quá rõ.
Trên thực tế, tiêu chuẩn đánh giá con người đặt nặng về phía có. Ai có nhiều tiền của, có quyền cao chức trọng, có uy tín được dư luận tôn vinh, có nhiều bạn sang giàu, đó là người được coi là có giá trị.
Đang khi đó, những người thực chất là đạo đức, thực chất là nhiều khả năng, thực chất là chân chính, thực chất là tu thân, thì lại bị bỏ quên, bị loại trừ, bị khinh chê.
Đáng suy nghĩ nhất là khoảng cách giữa người có quyền và người không có quyền, cho dù người không có quyền là rất tốt.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu luôn đề cao cái là.
"Thầy là cây nho, các con là ngành" ( Ga 15,5).
"Các con là muối cho đời" (Mt 5,13).
"Các con là ánh sáng thế gian" (Mt 5,14).
"Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho các bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những ai là kẻ bé mọn" (Lc 10,21).
3/ Khoảng cách giữa đấu tranh và sự hối cải
Tết vừa qua, Hội Thánh Việt Nam đã đón nhận hai sứ điệp. Một sứ điệp là hối cải, do Mùa Chay. Sứ điệp này đã được đọc một cách long trọng ngày 30 Tết nhằm lễ Tro. Một sứ điệp khác là đấu tranh. Sứ điệp này đã được loan đi từ biến cố xảy ra nơi này nơi nọ, do nhiều phương tiện thông tin đại chúng.
Sứ điệp hối cải được ban ra từ Lời Chúa, nên có giá trị vững bền, dẫn về cõi bình an sâu thẳm. Còn sứ điệp đấu tranh bị nhiễu quá nhiều. Nó đã vượt xa biến cố ban đầu, dẫn về một tương lai nhiều thách đố lớn. Nên giá trị thực của nó là ở sự đợi chờ sáng suốt. Đắc thắng hiện tại chỉ là thành công bé nhỏ.
Phần tôi, tôi theo dõi sứ điệp đấu tranh với tâm hồn cầu nguyện và tỉnh thức. Nhưng tôi đón nhận sứ điệp Phúc Âm Mùa Chay với niềm tin tuyệt đối vâng phục ý Chúa.
Kinh Thánh trong sách Khải Huyền có đoạn Chúa gởi cho Hội Thánh ở Ephêsô: "Ngươi có lòng kiên nhẫn và đã chịu khổ vì danh Ta mà không mệt mỏi. Nhưng Ta trách ngươi điều này: Ngươi đã để mất tình yêu thuở ban đầu. Vậy hãy nhớ lại xem ngươi đã từ đâu rơi xuống. Hãy hối cải và làm những việc ngươi đã làm thuở ban đầu. Bằng không, Ta đến với ngươi, và Ta sẽ đem cây đèn của ngươi ra khỏi chỗ của nó, nếu ngươi không hối cải" (Kh 2,3-5).
Cảnh giác trên đây luôn hữu ích cho phần rỗi.
Mấy khoảng cách trên đây là những thời sự. Suy tư về những thời sự đó trong ánh sáng Phúc Âm cũng là một sinh hoạt ý nghĩa trong xã hội hôm nay.
Xã hội hôm nay đang có những liên kết và những rạn nứt, đang có những hôn nhân và những ly hôn trong nhiều lãnh vực, như gia đình, văn hoá, đời đạo.
Xã hội hôm nay đang có những tảng băng trôi nổi trên bề mặt và có những sóng ngầm nguy hại không dễ phát hiện.
Rất mong những ai đang lo cho nền giáo dục Kitô giáo sẽ quan tâm hơn nữa đến tình hình cụ thể của Việt Nam hôm nay, nhất là bằng cách nêu gương sáng.
Ngày mùng năm Tết Mậu Tý
Những ngày Tết, tôi được nhiều lời mừng chúc. Lời chúc mừng nào cũng hướng về tương lai. Tâm tình trao tặng nhau, cho dù tốt đẹp đến mấy, vẫn không cản được cảm nghĩ của tôi về khoảng cách.
Tôi cảm thấy mình khác xa trước. Giữa nay và trước có một khoảng cách sâu rộng. Trước là trẻ, nay là rất già.
Chính khoảng cách riêng tư này dẫn tôi nhìn vào một số khoảng cách khác. Những khoảng cách này đang là sự kiện xã hội tôn giáo hôm nay, nhưng đã được báo trước trong Kinh Thánh.
1/ Khoảng cách giữa giàu và nghèo
Sự kiện nổi bật trong Tết vừa qua có lẽ là khoảng cách giữa giàu và nghèo.
Giàu rất giàu, nghèo rất nghèo.
Khoảng cách về của cải là khủng khiếp. Có người làm chủ mấy ngàn tỷ. Đang khi có người tìm tiền mua gạo cho một ngày mà không sao kiếm đủ.
Khoảng cách về tâm lý là thê thảm. Bên thì tự hào mở sang thế giới bạn bè và các tầng lớp xã hội. Bên thì tự rút về thân phận cô đơn, buồn tủi.
Khoảng cách về dự kiến là rất ảm đạm. Giàu thì chắp cánh bay xa bay cao. Nghèo thì bị bó chân bó tay vào những mơ ước nhỏ nhoi, đôi khi còn bị dồn xuống hố thất vọng và tuyệt vọng.
Khoảng cách giàu nghèo hôm nay có thể được nhìn bằng nhiều cách. Cách nhìn mang ý nghĩa nhất là nhìn qua dụ ngôn Chúa Giêsu đã đưa ra về người phú hộ và người hành khất Ladarô.
Người phú hộ mặc toàn đồ sang trọng, ăn toàn những món quý mắc tiền. Còn người hành khất Ladarô thì rách rưới, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng nhà phú hộ, bạn với mấy con chó đói.
Sau này, hai người cùng chết. Trong thế giới bên kia, số phận đổi ngược. Người phú hộ xuống hoả ngục, ông ăn mày được lên thiên đàng. Bởi vì lúc còn sống, người phú hộ đã sống ích kỷ thất đức, còn người ăn mày đã chịu thử thách với lương tâm trong sáng (x. Lc 16,19-31).
Hy vọng khoảng cách đau buồn trên đây tại Việt Nam hôm nay chỉ là lẻ tẻ. Nhưng, theo tôi, cái lẻ tẻ đó vẫn rất đau lòng.
2/ Khoảng cách giữa có với là
Tết năm nay, sự xung đột giữa có và là thực quá rõ.
Trên thực tế, tiêu chuẩn đánh giá con người đặt nặng về phía có. Ai có nhiều tiền của, có quyền cao chức trọng, có uy tín được dư luận tôn vinh, có nhiều bạn sang giàu, đó là người được coi là có giá trị.
Đang khi đó, những người thực chất là đạo đức, thực chất là nhiều khả năng, thực chất là chân chính, thực chất là tu thân, thì lại bị bỏ quên, bị loại trừ, bị khinh chê.
Đáng suy nghĩ nhất là khoảng cách giữa người có quyền và người không có quyền, cho dù người không có quyền là rất tốt.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu luôn đề cao cái là.
"Thầy là cây nho, các con là ngành" ( Ga 15,5).
"Các con là muối cho đời" (Mt 5,13).
"Các con là ánh sáng thế gian" (Mt 5,14).
"Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho các bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những ai là kẻ bé mọn" (Lc 10,21).
3/ Khoảng cách giữa đấu tranh và sự hối cải
Tết vừa qua, Hội Thánh Việt Nam đã đón nhận hai sứ điệp. Một sứ điệp là hối cải, do Mùa Chay. Sứ điệp này đã được đọc một cách long trọng ngày 30 Tết nhằm lễ Tro. Một sứ điệp khác là đấu tranh. Sứ điệp này đã được loan đi từ biến cố xảy ra nơi này nơi nọ, do nhiều phương tiện thông tin đại chúng.
Sứ điệp hối cải được ban ra từ Lời Chúa, nên có giá trị vững bền, dẫn về cõi bình an sâu thẳm. Còn sứ điệp đấu tranh bị nhiễu quá nhiều. Nó đã vượt xa biến cố ban đầu, dẫn về một tương lai nhiều thách đố lớn. Nên giá trị thực của nó là ở sự đợi chờ sáng suốt. Đắc thắng hiện tại chỉ là thành công bé nhỏ.
Phần tôi, tôi theo dõi sứ điệp đấu tranh với tâm hồn cầu nguyện và tỉnh thức. Nhưng tôi đón nhận sứ điệp Phúc Âm Mùa Chay với niềm tin tuyệt đối vâng phục ý Chúa.
Kinh Thánh trong sách Khải Huyền có đoạn Chúa gởi cho Hội Thánh ở Ephêsô: "Ngươi có lòng kiên nhẫn và đã chịu khổ vì danh Ta mà không mệt mỏi. Nhưng Ta trách ngươi điều này: Ngươi đã để mất tình yêu thuở ban đầu. Vậy hãy nhớ lại xem ngươi đã từ đâu rơi xuống. Hãy hối cải và làm những việc ngươi đã làm thuở ban đầu. Bằng không, Ta đến với ngươi, và Ta sẽ đem cây đèn của ngươi ra khỏi chỗ của nó, nếu ngươi không hối cải" (Kh 2,3-5).
Cảnh giác trên đây luôn hữu ích cho phần rỗi.
Mấy khoảng cách trên đây là những thời sự. Suy tư về những thời sự đó trong ánh sáng Phúc Âm cũng là một sinh hoạt ý nghĩa trong xã hội hôm nay.
Xã hội hôm nay đang có những liên kết và những rạn nứt, đang có những hôn nhân và những ly hôn trong nhiều lãnh vực, như gia đình, văn hoá, đời đạo.
Xã hội hôm nay đang có những tảng băng trôi nổi trên bề mặt và có những sóng ngầm nguy hại không dễ phát hiện.
Rất mong những ai đang lo cho nền giáo dục Kitô giáo sẽ quan tâm hơn nữa đến tình hình cụ thể của Việt Nam hôm nay, nhất là bằng cách nêu gương sáng.
Ngày mùng năm Tết Mậu Tý
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:38 16/02/2008
NGÔ KHỞI CÔNG ĐÁNH TẦN ĐÌNH
Ngôi Khởi là quan của nước Ngụy đóng giữ ở Tây Hồ, ở biên giới Tây Hồ có một cái hậu đình nho nhỏ của nước Tần, quân đội nước Tần đóng quân ở đó và thường chạy qua quấy nhiễu dân nước Ngụy.
Ngô Khởi rất muốn phá hủy cái hậu đình này, nhưng cái chuyện nhỏ ấy không đáng để điều động quân đội quốc gia, do đó khiến cho ông ta thêm nhức óc.
Một hôm, Ngô Khởi đem một cái càng xe để sát bên ngoài tường cửa bắc, phát mệnh lệnh: “Người đem cái càng xe này dời qua cửa nam, thì có thể được thưởng ruộng nhà.” Khởi đầu không một ai tin rằng dưới trời đất này lại có chuyện dễ làm như thế, sau đó có một người dè dặt đi làm thử, quả nhiên được thưởng.
Ngô Khởi lại dùng một bao đậu đỏ bỏ ngoài cửa đông, cũng phát lệnh như thế, lần này mọi người tranh nhau tiến lên đi làm. Ngô Khởi nhìn thời cơ đã chín mùi thì lại phát mệnh lệnh, nói: “Ngày mai phải công kích cái hậu đình của nước Tần, người tiến công hậu đình trước nhất, thì sẽ được phong làm quan đại phu, đem ruộng vườn tốt nhất thưởng cho họ.”
Qua ngày hôm sau, hiệu lệnh tiến công vang lên, mọi người tranh nhau tiến lên, không bao lâu thì cái hậu đình của nước Tần bị triệt hạ.
(Hàn Phi tử: Nội các thuyết thượng- Thất thuật)
Suy tư:
Ngô Khởi là tướng giỏi của nước Ngụy, có đủ khôn ngoan và trí tuệ để “nhổ” cái hậu đình của nước Tần mà không cần phải dùng đến đại binh.
Khi ma quỷ cám dỗ con người ta thì nó cũng thường dùng mưu chước như Ngô Khởi: trước hết nó nhử lòng tham của con người về tiền bạc, chức quyền và sắc dục với nhiều lý do như Chúa dựng nên mọi sự cho con người hưởng dùng, nào là Chúa không muốn tôi phải sống trong cảnh nghèo hèn, nào là Chúa dựng nên đàn bà con gái là để giúp đỡ cho đàn ông con trai, nào là mê sắc đẹp thì đâu có gì là tội.v.v...và thế là con người ăn phải cặn bã cám dỗ của ma quỷ, và một khi con người ăn ngấm từ từ thì không còn sợ tội nữa và cũng chẳng còn có ý niệm về thưởng phạt đời sau nữa...
Người Ki-tô hữu thì phải luôn sáng suốt hơn những người khác, bởi vì họ được Lời Chúa nhắc nhở cảnh cáo; người Ki-tô hữu cần phải khôn ngoan và nhạy bén hơn các người khác, bởi vì họ được Chúa Thánh Thần dạy dỗ; người Ki-tô hữu phải can đảm và anh dũng hơn những người khác, bởi vì họ có các bí tích và chuỗi Mân Côi để làm vũ khí chống trả với chước cám dỗ của ma quỷ.
Chỉ có tỉnh thức và cầu nguyện mới khỏi sa chước cám dỗ mà thôi, bởi vì khi tỉnh thức thì có sự sáng suốt và khi cầu nguyện thì có ân sủng của Thiên Chúa.
![]() |
N2T |
Ngôi Khởi là quan của nước Ngụy đóng giữ ở Tây Hồ, ở biên giới Tây Hồ có một cái hậu đình nho nhỏ của nước Tần, quân đội nước Tần đóng quân ở đó và thường chạy qua quấy nhiễu dân nước Ngụy.
Ngô Khởi rất muốn phá hủy cái hậu đình này, nhưng cái chuyện nhỏ ấy không đáng để điều động quân đội quốc gia, do đó khiến cho ông ta thêm nhức óc.
Một hôm, Ngô Khởi đem một cái càng xe để sát bên ngoài tường cửa bắc, phát mệnh lệnh: “Người đem cái càng xe này dời qua cửa nam, thì có thể được thưởng ruộng nhà.” Khởi đầu không một ai tin rằng dưới trời đất này lại có chuyện dễ làm như thế, sau đó có một người dè dặt đi làm thử, quả nhiên được thưởng.
Ngô Khởi lại dùng một bao đậu đỏ bỏ ngoài cửa đông, cũng phát lệnh như thế, lần này mọi người tranh nhau tiến lên đi làm. Ngô Khởi nhìn thời cơ đã chín mùi thì lại phát mệnh lệnh, nói: “Ngày mai phải công kích cái hậu đình của nước Tần, người tiến công hậu đình trước nhất, thì sẽ được phong làm quan đại phu, đem ruộng vườn tốt nhất thưởng cho họ.”
Qua ngày hôm sau, hiệu lệnh tiến công vang lên, mọi người tranh nhau tiến lên, không bao lâu thì cái hậu đình của nước Tần bị triệt hạ.
(Hàn Phi tử: Nội các thuyết thượng- Thất thuật)
Suy tư:
Ngô Khởi là tướng giỏi của nước Ngụy, có đủ khôn ngoan và trí tuệ để “nhổ” cái hậu đình của nước Tần mà không cần phải dùng đến đại binh.
Khi ma quỷ cám dỗ con người ta thì nó cũng thường dùng mưu chước như Ngô Khởi: trước hết nó nhử lòng tham của con người về tiền bạc, chức quyền và sắc dục với nhiều lý do như Chúa dựng nên mọi sự cho con người hưởng dùng, nào là Chúa không muốn tôi phải sống trong cảnh nghèo hèn, nào là Chúa dựng nên đàn bà con gái là để giúp đỡ cho đàn ông con trai, nào là mê sắc đẹp thì đâu có gì là tội.v.v...và thế là con người ăn phải cặn bã cám dỗ của ma quỷ, và một khi con người ăn ngấm từ từ thì không còn sợ tội nữa và cũng chẳng còn có ý niệm về thưởng phạt đời sau nữa...
Người Ki-tô hữu thì phải luôn sáng suốt hơn những người khác, bởi vì họ được Lời Chúa nhắc nhở cảnh cáo; người Ki-tô hữu cần phải khôn ngoan và nhạy bén hơn các người khác, bởi vì họ được Chúa Thánh Thần dạy dỗ; người Ki-tô hữu phải can đảm và anh dũng hơn những người khác, bởi vì họ có các bí tích và chuỗi Mân Côi để làm vũ khí chống trả với chước cám dỗ của ma quỷ.
Chỉ có tỉnh thức và cầu nguyện mới khỏi sa chước cám dỗ mà thôi, bởi vì khi tỉnh thức thì có sự sáng suốt và khi cầu nguyện thì có ân sủng của Thiên Chúa.
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:48 16/02/2008
Chương 12:
“Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6, 58)
THÁNH THỂ
“Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6, 58)
THÁNH THỂ (1)
![]() |
N2T |
1. Lợi ích của một lần rước Thánh Thể, thì vượt qua cả một tuần ăn chay.
(Thánh Vincent)Chúa Nhật II Mùa Chay: Say mê tình yêu với Chúa Kitô
Đ.Ô Nguyễn Quang Sách
23:53 16/02/2008
ROME (Zenit.org).- Cha Raniero Cantalamessa Dòng Capuchin, là vị giảng Phủ Giáo Hoàng, đã giải thích những bài đọc Thánh Lễ Chúa Nhật II Mùa Chay: Tại sao đức tin và sự thực hành tôn giáo sút kém, và tại sao đức tin và sự thực hành tôn giáo xem ra không tạo thành, nhất là không phải cho hầu hết mọi người, là điểm qui chiếu trong đời sống?
Tại sao tình trạng buồn chán, sự mỏi mệt, sự tranh đấu cho những kẻ tin khi thực thi các nhiệm vụ của mình? Tại sao giới trẻ không cảm thấy được hấp dẫn tới đức tin? Nói tóm, tại sao sự buồn tẻ và sự thiếu niềm vui này giữa các kẻ tin vào Chúa Kitô? Biến cố hiển dung của Chúa Kitô giúp chúng ta trả lời các câu hỏi này.
Sự hiển dung có ý nghĩa gì cho ba người môn đệ hiện diện? Cho tới bây giờ các ông chỉ biết Chúa Giêsu bề ngoài: Người không phải là một người khác với những kẻ khác; các ông biết Người đến từ đâu, biết những tập quán, âm sắc của Người. Bây giờ các ông thấy một Giêsu khác, Giêsu thật, một Giêsu không thể thấy được với những con mắt sự sống thường ngày, dưới ánh sáng bình thường của mặt trời; điều mà bây giờ các ông biết về Người là hậu quả của một sự mạc khải thình lình, của một sự thay đổi, của một ân huệ.
Bởi vì những sự việc cũng thay đổi đối với chúng ta, cũng như đã thay đổi cho ba môn đệ trên núi Tabor; một điều gì cần xảy đến trong những cuộc đời chúng ta tương tự như điều xảy đến khi một chàng trai và một thiếu nữ phải lòng nhau. Khi phải lòng với một kẻ nào, là người yêu, trước đây là một trong số nhiều người, hay có lẽ là một người xa lạ, thình lình lại trở thành một kẻ duy nhất, người duy nhất trong thế giới làm chúng ta quan tâm. Mọi sự khác bị bỏ lại đàng sau và trở thành một thứ hậu cảnh trung lập. Người ta không thể nghĩ tới cái gì khác. Một sự hiển dung thật xuất hiện. Người yêu xem ra như một hào quang sáng ngời. Mọi sự thuộc về cô ấy đều đẹp, cả những khuyết điểm. Người ta cảm thấy mình không xứng đáng với cô. Tình yêu thật phát sinh tính khiêm nhượng.
Một cái gì cụ thể cũng thay đổi trong chính những tập quán con người. Tôi biết những người trẻ mà cha mẹ không thể kéo chúng khỏi giường mỗi buổi sáng để đi học; hay là sao lãng việc học hành và không thể đổ đạt. Sau đó, một khi chúng phải lòng người nào và đi vào một tương quan nghiêm chỉnh, chúng nhảy xuống khỏi giường trong buổi mai, chúng nôn nóng cho hết buổi học, nếu chúng có một việc làm, chúng giữ khăng khăng sự đó. Cái gì đã xảy ra? chẳng có gì cả, đó đúng là điều mà trước đây chúng bị cưỡng ép làm, bây giờ chúng làm vì một sự hấp dẫn. Một sự lôi cuốn cho phép người ta làm những sự sức mạnh không thể bắt người ta làm; điều đó đặt cánh trên chân người ta. “Mỗi người,” thi sĩ Ovid nói, “bị đối tượng của sở thích mình lôi kéo.”
Một cái gì thuộc loại phải xảy ra một lần trong cuộc sống chúng ta là thật cho chúng ta, là những Kitô hữu xác tín, và vui mừng khôn xiết vì được như vậy. Có người nói, “Những người nam trẻ và người nữ trẻ được thấy và được tiếp xúc!”
Tôi trả lời: Chúng ta thấy và cũng tiếp xúc Chúa Giêsu, nhưng với những con mắt khác và những bàn tay khác—những con mắt và những bàn tay tâm hồn, đức tin. Người đã sống lại và sống động. Đối với những đã trải qua và biết Người, Người là một hữu thể cụ thể, không phải là cái gì trừu tượng.
Thật vậy, với Chúa Giêsu những sự việc tiến hành còn tốt hơn. Trong tình yêu nhân bản chúng ta tự lừa dối mình, chúng ta gán những ân huệ cho người yêu mà họ không có và với thời gian chúng ta thường bị bắt buộc thay đổi lòng trí chúng ta về họ. Trong trường hợp Chúa Giêsu, người ta càng biết Người và càng ở chung với Người, thì người ta càng khám phá những lý do mới để yêu mến Người và được củng cố trong sự lựa chọn của mình.
Điều này không có nghĩa là với Chúa Kitô chúng ta cũng phải đợi “cú sét” cổ điển tình yêu. Nếu một người nam trẻ hay một người nữ trẻ ở trong nhà luôn mà không thấy ai, thì không gì sẽ xảy ra trong đời sống của anh hay của chị. Muốn yêu ai anh chị phải tiếp xúc với người ta!
Nếu người ta xác tín, hay là đơn giản bắt đầu nghĩ rằng điều tốt và đáng giá là biết Chúa Giêsu Kitô trong cách khác này, là hiển dung, bấy giờ người ta phải ở với Người, đọc những tác phẩm của Người. Sách Tin Mừng là thơ tình yêu của Người! Chính ở đó Người mạc khải chính mình, ở đó Người: biến hình” chính mình. Nhà của Người là Giáo Hội: Chính ở đó người ta gặp Người.
Tại sao tình trạng buồn chán, sự mỏi mệt, sự tranh đấu cho những kẻ tin khi thực thi các nhiệm vụ của mình? Tại sao giới trẻ không cảm thấy được hấp dẫn tới đức tin? Nói tóm, tại sao sự buồn tẻ và sự thiếu niềm vui này giữa các kẻ tin vào Chúa Kitô? Biến cố hiển dung của Chúa Kitô giúp chúng ta trả lời các câu hỏi này.
Sự hiển dung có ý nghĩa gì cho ba người môn đệ hiện diện? Cho tới bây giờ các ông chỉ biết Chúa Giêsu bề ngoài: Người không phải là một người khác với những kẻ khác; các ông biết Người đến từ đâu, biết những tập quán, âm sắc của Người. Bây giờ các ông thấy một Giêsu khác, Giêsu thật, một Giêsu không thể thấy được với những con mắt sự sống thường ngày, dưới ánh sáng bình thường của mặt trời; điều mà bây giờ các ông biết về Người là hậu quả của một sự mạc khải thình lình, của một sự thay đổi, của một ân huệ.
Bởi vì những sự việc cũng thay đổi đối với chúng ta, cũng như đã thay đổi cho ba môn đệ trên núi Tabor; một điều gì cần xảy đến trong những cuộc đời chúng ta tương tự như điều xảy đến khi một chàng trai và một thiếu nữ phải lòng nhau. Khi phải lòng với một kẻ nào, là người yêu, trước đây là một trong số nhiều người, hay có lẽ là một người xa lạ, thình lình lại trở thành một kẻ duy nhất, người duy nhất trong thế giới làm chúng ta quan tâm. Mọi sự khác bị bỏ lại đàng sau và trở thành một thứ hậu cảnh trung lập. Người ta không thể nghĩ tới cái gì khác. Một sự hiển dung thật xuất hiện. Người yêu xem ra như một hào quang sáng ngời. Mọi sự thuộc về cô ấy đều đẹp, cả những khuyết điểm. Người ta cảm thấy mình không xứng đáng với cô. Tình yêu thật phát sinh tính khiêm nhượng.
Một cái gì cụ thể cũng thay đổi trong chính những tập quán con người. Tôi biết những người trẻ mà cha mẹ không thể kéo chúng khỏi giường mỗi buổi sáng để đi học; hay là sao lãng việc học hành và không thể đổ đạt. Sau đó, một khi chúng phải lòng người nào và đi vào một tương quan nghiêm chỉnh, chúng nhảy xuống khỏi giường trong buổi mai, chúng nôn nóng cho hết buổi học, nếu chúng có một việc làm, chúng giữ khăng khăng sự đó. Cái gì đã xảy ra? chẳng có gì cả, đó đúng là điều mà trước đây chúng bị cưỡng ép làm, bây giờ chúng làm vì một sự hấp dẫn. Một sự lôi cuốn cho phép người ta làm những sự sức mạnh không thể bắt người ta làm; điều đó đặt cánh trên chân người ta. “Mỗi người,” thi sĩ Ovid nói, “bị đối tượng của sở thích mình lôi kéo.”
Một cái gì thuộc loại phải xảy ra một lần trong cuộc sống chúng ta là thật cho chúng ta, là những Kitô hữu xác tín, và vui mừng khôn xiết vì được như vậy. Có người nói, “Những người nam trẻ và người nữ trẻ được thấy và được tiếp xúc!”
Tôi trả lời: Chúng ta thấy và cũng tiếp xúc Chúa Giêsu, nhưng với những con mắt khác và những bàn tay khác—những con mắt và những bàn tay tâm hồn, đức tin. Người đã sống lại và sống động. Đối với những đã trải qua và biết Người, Người là một hữu thể cụ thể, không phải là cái gì trừu tượng.
Thật vậy, với Chúa Giêsu những sự việc tiến hành còn tốt hơn. Trong tình yêu nhân bản chúng ta tự lừa dối mình, chúng ta gán những ân huệ cho người yêu mà họ không có và với thời gian chúng ta thường bị bắt buộc thay đổi lòng trí chúng ta về họ. Trong trường hợp Chúa Giêsu, người ta càng biết Người và càng ở chung với Người, thì người ta càng khám phá những lý do mới để yêu mến Người và được củng cố trong sự lựa chọn của mình.
Điều này không có nghĩa là với Chúa Kitô chúng ta cũng phải đợi “cú sét” cổ điển tình yêu. Nếu một người nam trẻ hay một người nữ trẻ ở trong nhà luôn mà không thấy ai, thì không gì sẽ xảy ra trong đời sống của anh hay của chị. Muốn yêu ai anh chị phải tiếp xúc với người ta!
Nếu người ta xác tín, hay là đơn giản bắt đầu nghĩ rằng điều tốt và đáng giá là biết Chúa Giêsu Kitô trong cách khác này, là hiển dung, bấy giờ người ta phải ở với Người, đọc những tác phẩm của Người. Sách Tin Mừng là thơ tình yêu của Người! Chính ở đó Người mạc khải chính mình, ở đó Người: biến hình” chính mình. Nhà của Người là Giáo Hội: Chính ở đó người ta gặp Người.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Nội dung cuộc họp giữa ĐGH và TT Bush vào ngày 16 tháng 4.
Nguyễn Long Thao
10:57 16/02/2008
WASHINGTON 15/02/08 – Phát ngôn viên tòa Bạch Ốc hôm thứ Sáu loan tin Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ vào tháng 4 sắp tới sẽ gặp Tổng Thống George W. Bush để bàn về các vấn đề tự do tôn giáo, cổ vũ cho nền hòa bình ở Trung Đông.
Đức Thánh Cha sẽ đến Hoa Kỳ vào ngày 15 tháng 4 và ngày hôm sau Ngài sẽ găp TT Bush tại Tòa Bạc Ốc. Trong chuyến đi này, Ngài sẽ đọc diễn văn trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, sẽ gặp gỡ hàng giáo phẩm cao cấp Công Giáo và các nhà lãnh đạo các tôn giáo khác tại Hoa Kỳ.
Nữ phát ngôn viên tòa Bạc Ốc, Bà Dana Perino, cho biết đây là cuộc họp đầu tiên giữa một TT. Hoa Kỳ và ĐGH Bênêđictô tại Tòa Bạc Ốc kể từ năm 1979. Nội dung phiên họp là hai bên sẽ cùng bàn thảo về tầm quan trọng của đức tin và tôn giáo để đạt mục tiêu hai bên cùng chia sẻ.
Mục tiêu đó là đẩy mạnh hòa bình tại Trung Đông và những nơi khác đang có xung đột, cỗ vũ cho việc đối thoại và cảm thông giữa các tôn giáo, tự do và nhân quyền, đặc biệt tự do tôn giáo trên khắp thế giới.
Đức Thánh Cha sẽ đến Hoa Kỳ vào ngày 15 tháng 4 và ngày hôm sau Ngài sẽ găp TT Bush tại Tòa Bạc Ốc. Trong chuyến đi này, Ngài sẽ đọc diễn văn trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, sẽ gặp gỡ hàng giáo phẩm cao cấp Công Giáo và các nhà lãnh đạo các tôn giáo khác tại Hoa Kỳ.
Nữ phát ngôn viên tòa Bạc Ốc, Bà Dana Perino, cho biết đây là cuộc họp đầu tiên giữa một TT. Hoa Kỳ và ĐGH Bênêđictô tại Tòa Bạc Ốc kể từ năm 1979. Nội dung phiên họp là hai bên sẽ cùng bàn thảo về tầm quan trọng của đức tin và tôn giáo để đạt mục tiêu hai bên cùng chia sẻ.
Mục tiêu đó là đẩy mạnh hòa bình tại Trung Đông và những nơi khác đang có xung đột, cỗ vũ cho việc đối thoại và cảm thông giữa các tôn giáo, tự do và nhân quyền, đặc biệt tự do tôn giáo trên khắp thế giới.
Đức Thánh Cha kết thúc tuần tĩnh tâm mùa chay 2008
LM. Trần Đức Anh, OP.
10:59 16/02/2008
VATICAN. Lúc 9 giờ sáng thứ bẩy, 16-2-2008, ĐTC Biển Đức 16 và các chức sắc của Tòa Thánh, đã kết thúc tuần tĩnh tâm mùa chay, bắt đầu từ chiều chúa nhật 10-2-2008 trước đó.
Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nhiệt liệt cám ơn vị giảng tĩnh tâm là ĐHY Albert Vanhoye SJ về những bài suy niệm sâu xa về linh đạo và thần học. Ngài nói: ”Theo cái nhìn của tôi, tôi luôn thấy trước mặt hình ảnh Chúa Giêsu quì gối trước thánh Phêrô để rửa chân cho người môn đệ. Qua những bài suy niệm của ĐHY, hình ảnh đó đã nói với tôi. Tôi thấy qua thái độ đó của Chúa Giêsu, thái độ khiêm tốn tột cùng, chức tư tế của Chúa Giêsu được thể hiện.
Chức ấy được thể hiện chính trong thái độ liên đới của Chúa với chúng ta, với những yếu đuối, đau khổ, thử thách của chúng ta, cho đến cái chết. Và thế là, tôi nhìn thấy với một nhãn giới mới, chiếc áo đỏ của Chúa Giêsu, nói với chúng ta về máu của Chúa. ĐHY đã dạy chúng tôi về cách thức máu của Chúa Giêsu, nhờ kinh nguyện của Người, được ốc-xy hóa nhờ Chúa Thánh Linh, và nhờ đó trở thành sức mạnh cứu độ và là nguồn sự sống cho chúng ta”.
ĐTC cũng nhắc đến sự kiện thánh Phêrô xin Chúa Giêsu đừng rửa chân cho mình, và sau đó thánh nhân lại xin Chúa không những rửa chân, nhưng cả đầu và tay mình nữa. Ngài nói: ”Qua cử chỉ đó, tôi thấy dường như diễn tả sự khó khăn của thánh Phêrô và tất cả các môn đệ của Chúa trong việc hiểu biết sự mới mẻ lạ lùng chức tư tế của Chúa Giêsu, chức này chính là sự hạ mình, liên đới với chúng ta, và qua đó mở cho chúng ta lối vào cung thánh đích thực, là thân thể phục sinh của Chúa Giêsu.. Theo nghĩa đó, tôi thấy hình ảnh của thánh Phêrô giống như hình ảnh của tất cả chúng ta ngày nay. ĐHY đã giúp chúng tôi lắng nghe tiếng Chúa, để tái học biết chức tư tế của Người và của chúng ta là gì. ĐHY đã giúp chúng tôi đi vào sự tham gia chức tư tế của Chúa Kitô, và nhờ đó lãnh nhận một trái tim mới, trái tim của Chúa Giêsu, như trung tâm mầu nhiệm Tân Ước”.
ĐHY Albert Vanhoye, người Pháp, năm nay 84 tuổi, nguyên là một chuyên gia Kinh Thánh nổi tiếng và từng làm Viện trưởng Thánh Kinh học viện ở Roma, và làm Tổng thư ký Ủy ban Tòa Thánh về Kinh Thánh. ĐHY đã chọn đề tài cho tuần tĩnh tâm là ”Chúng ta chào đón Chúa Kitô vị Thượng Tế của chúng ta”, rút từ thư gửi tín hữu Do thái: ”Vì chúng ta có một vị Thượng Tế đã lên trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, nên chúng ta hãy kiên vững tuyên xưng đức tin”.
Dưới thời Đức Gioan Phaolô 2, trong tuần tĩnh tâm mùa chay, mỗi ngày có 4 bài suy niệm của vị giảng phòng. Nhưng ĐTC Biển Đức 16 đã bớt đi một bài, và mỗi ngày chỉ còn lại 3 bài suy niệm.
ĐHY Vanhoye đã điểm qua một số đoạn Kinh Thánh, trong đó một số Ngôn Sứ đã báo trước sự cần thiết phải có một con tim mới, có khả năng đi vào cuộc đối thoại với Thiên Chúa. Kiểu mẫu ấy đã đến với Tân Ước: đó chính là trái tim tuyệt hảo của Chúa Giêsu - một con tim hiệp thông trọn vẹn với Chúa Cha. Chúa Giêsu đón nhận một trái tim bằng thịt để đổi mới con tim của mỗi người, qua cuộc khổ nạn, bề ngoài vốn là điều trái ngược với tình yêu, vì sự tàn ác và những hình khổ tra tấn trong đó. Chính trong bối cảnh đó, Chúa Kitô trở thành tư tế tuyệt hảo, và con tim của Chúa, trong Giáo Hội qua mọi thời đại, tiếp tục biểu lộ qua sự trung gian của các thừa tác viên, là những người được kêu gọi có cùng như phẩm tính như Chúa Kitô thủ lãnh, nghĩa là có cùng một con tim khiêm đối đối với Thiên Chúa, một con tim dịu dàng đối với tha nhân.
ĐHY Vanhoye nói: ”Để trở thành bí tích của Chúa Kitô tư tế, Giám mục, Linh mục phải liên kết với trái tim Chúa Kitô trong hai thái độ cơ bản: ngoan ngoãn đối với Thiên Chúa, từ bi nhân hậu đối với con người. Họ phải có một trái tim con thảo đối với Thiên Chúa Cha và một con trái tim huynh đệ đối với con người”.
Sau cùng, ĐHY giảng thuyết nói rằng: ”Chúa Giêsu liên kết các tông đồ, nghĩa là các Giám mục và Linh mục với chức tư tế của Ngài. Hơn nữa, với Bữa Tiệc Ly, Ngài đặt chính thân thể, con tim của Ngài trong tay các linh mục để phân phát cho tha nhân. Xét cho cùng, đời sống Kitô hệ tại đón nhận và sở hữu nơi mình chính trái tim của Chúa Giêsu” (SD 16-2-2008)
Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nhiệt liệt cám ơn vị giảng tĩnh tâm là ĐHY Albert Vanhoye SJ về những bài suy niệm sâu xa về linh đạo và thần học. Ngài nói: ”Theo cái nhìn của tôi, tôi luôn thấy trước mặt hình ảnh Chúa Giêsu quì gối trước thánh Phêrô để rửa chân cho người môn đệ. Qua những bài suy niệm của ĐHY, hình ảnh đó đã nói với tôi. Tôi thấy qua thái độ đó của Chúa Giêsu, thái độ khiêm tốn tột cùng, chức tư tế của Chúa Giêsu được thể hiện.
Chức ấy được thể hiện chính trong thái độ liên đới của Chúa với chúng ta, với những yếu đuối, đau khổ, thử thách của chúng ta, cho đến cái chết. Và thế là, tôi nhìn thấy với một nhãn giới mới, chiếc áo đỏ của Chúa Giêsu, nói với chúng ta về máu của Chúa. ĐHY đã dạy chúng tôi về cách thức máu của Chúa Giêsu, nhờ kinh nguyện của Người, được ốc-xy hóa nhờ Chúa Thánh Linh, và nhờ đó trở thành sức mạnh cứu độ và là nguồn sự sống cho chúng ta”.
ĐTC cũng nhắc đến sự kiện thánh Phêrô xin Chúa Giêsu đừng rửa chân cho mình, và sau đó thánh nhân lại xin Chúa không những rửa chân, nhưng cả đầu và tay mình nữa. Ngài nói: ”Qua cử chỉ đó, tôi thấy dường như diễn tả sự khó khăn của thánh Phêrô và tất cả các môn đệ của Chúa trong việc hiểu biết sự mới mẻ lạ lùng chức tư tế của Chúa Giêsu, chức này chính là sự hạ mình, liên đới với chúng ta, và qua đó mở cho chúng ta lối vào cung thánh đích thực, là thân thể phục sinh của Chúa Giêsu.. Theo nghĩa đó, tôi thấy hình ảnh của thánh Phêrô giống như hình ảnh của tất cả chúng ta ngày nay. ĐHY đã giúp chúng tôi lắng nghe tiếng Chúa, để tái học biết chức tư tế của Người và của chúng ta là gì. ĐHY đã giúp chúng tôi đi vào sự tham gia chức tư tế của Chúa Kitô, và nhờ đó lãnh nhận một trái tim mới, trái tim của Chúa Giêsu, như trung tâm mầu nhiệm Tân Ước”.
ĐHY Albert Vanhoye, người Pháp, năm nay 84 tuổi, nguyên là một chuyên gia Kinh Thánh nổi tiếng và từng làm Viện trưởng Thánh Kinh học viện ở Roma, và làm Tổng thư ký Ủy ban Tòa Thánh về Kinh Thánh. ĐHY đã chọn đề tài cho tuần tĩnh tâm là ”Chúng ta chào đón Chúa Kitô vị Thượng Tế của chúng ta”, rút từ thư gửi tín hữu Do thái: ”Vì chúng ta có một vị Thượng Tế đã lên trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, nên chúng ta hãy kiên vững tuyên xưng đức tin”.
Dưới thời Đức Gioan Phaolô 2, trong tuần tĩnh tâm mùa chay, mỗi ngày có 4 bài suy niệm của vị giảng phòng. Nhưng ĐTC Biển Đức 16 đã bớt đi một bài, và mỗi ngày chỉ còn lại 3 bài suy niệm.
ĐHY Vanhoye đã điểm qua một số đoạn Kinh Thánh, trong đó một số Ngôn Sứ đã báo trước sự cần thiết phải có một con tim mới, có khả năng đi vào cuộc đối thoại với Thiên Chúa. Kiểu mẫu ấy đã đến với Tân Ước: đó chính là trái tim tuyệt hảo của Chúa Giêsu - một con tim hiệp thông trọn vẹn với Chúa Cha. Chúa Giêsu đón nhận một trái tim bằng thịt để đổi mới con tim của mỗi người, qua cuộc khổ nạn, bề ngoài vốn là điều trái ngược với tình yêu, vì sự tàn ác và những hình khổ tra tấn trong đó. Chính trong bối cảnh đó, Chúa Kitô trở thành tư tế tuyệt hảo, và con tim của Chúa, trong Giáo Hội qua mọi thời đại, tiếp tục biểu lộ qua sự trung gian của các thừa tác viên, là những người được kêu gọi có cùng như phẩm tính như Chúa Kitô thủ lãnh, nghĩa là có cùng một con tim khiêm đối đối với Thiên Chúa, một con tim dịu dàng đối với tha nhân.
ĐHY Vanhoye nói: ”Để trở thành bí tích của Chúa Kitô tư tế, Giám mục, Linh mục phải liên kết với trái tim Chúa Kitô trong hai thái độ cơ bản: ngoan ngoãn đối với Thiên Chúa, từ bi nhân hậu đối với con người. Họ phải có một trái tim con thảo đối với Thiên Chúa Cha và một con trái tim huynh đệ đối với con người”.
Sau cùng, ĐHY giảng thuyết nói rằng: ”Chúa Giêsu liên kết các tông đồ, nghĩa là các Giám mục và Linh mục với chức tư tế của Ngài. Hơn nữa, với Bữa Tiệc Ly, Ngài đặt chính thân thể, con tim của Ngài trong tay các linh mục để phân phát cho tha nhân. Xét cho cùng, đời sống Kitô hệ tại đón nhận và sở hữu nơi mình chính trái tim của Chúa Giêsu” (SD 16-2-2008)
ĐTC ca ngợi tổ chức bác ái Misereor
Nguyễn Long Thao
11:59 16/02/2008
VATICAN CITY, 15/02/08.- “Tổ chức bác ái Misereor là chiếc cầu nối giữa những người có và những người không có ”
Đó là ngôn từ trong bức điệp văn của ĐGH Bênêđicto XVI gửi cho cơ quan bác ái Misereor của Đức nhân dịp tổ chức này mừng lễ kỷ niệm năm thứ 50. Hiện diện trong buổi lể có một số vị Giám Mục của Đức, Mỹ Châu La Tinh, Á Châu, Đại Dương Châu.
Điệp văn đã được ĐHY Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh ấn ký gửi cho Đức TGM Werner Thissen đặc trách tổ chức Misereor của Hội Đồng Giám Mục Đức Quốc.
Bản văn có đoạn viết: “Cách đây 50 năm tổ chức bác ái Misereor của Hội Đồng Giám Mục ra đời là để thích ứng với nhu cầu, là cảm nghiệm của lòng bác ái mà Chúa đã ban cho chúng ta và Giáo Hội đã truyền dậy cho chúng ta. Đó là lời mời gọi chúng ta chú ý đến nhu cầu của người khác và mời gọi chúng ta chia sẻ không những kho tàng đức tin mà còn chia sẻ của cải vật chất nữa.”
Bản văn của ĐTC đã nhắc lại thời ban đầu của tổ chức Misereor với đầy bất trắc đã làm cho ĐHY Joseph Frings thời đó gọi tổ chức này là một tổ chức phiêu lưu mạo hiểm của Chúa Thánh Thần.
Điệp văn kết thúc với đoạn ca ngợi tổ chức Misereor: “Trong những năm qua, chiếc cầu vững chắc đã nối liền giữa người có của và người có nhu cầu, là một phong trào hợp tác đã liên kết lại với nhau rất nhiều người ở Đức, Phi Châu, Á Châu, Đại Dương Châu và Mỹ Châu La Tinh.”
Đó là ngôn từ trong bức điệp văn của ĐGH Bênêđicto XVI gửi cho cơ quan bác ái Misereor của Đức nhân dịp tổ chức này mừng lễ kỷ niệm năm thứ 50. Hiện diện trong buổi lể có một số vị Giám Mục của Đức, Mỹ Châu La Tinh, Á Châu, Đại Dương Châu.
Điệp văn đã được ĐHY Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh ấn ký gửi cho Đức TGM Werner Thissen đặc trách tổ chức Misereor của Hội Đồng Giám Mục Đức Quốc.
Bản văn có đoạn viết: “Cách đây 50 năm tổ chức bác ái Misereor của Hội Đồng Giám Mục ra đời là để thích ứng với nhu cầu, là cảm nghiệm của lòng bác ái mà Chúa đã ban cho chúng ta và Giáo Hội đã truyền dậy cho chúng ta. Đó là lời mời gọi chúng ta chú ý đến nhu cầu của người khác và mời gọi chúng ta chia sẻ không những kho tàng đức tin mà còn chia sẻ của cải vật chất nữa.”
Bản văn của ĐTC đã nhắc lại thời ban đầu của tổ chức Misereor với đầy bất trắc đã làm cho ĐHY Joseph Frings thời đó gọi tổ chức này là một tổ chức phiêu lưu mạo hiểm của Chúa Thánh Thần.
Điệp văn kết thúc với đoạn ca ngợi tổ chức Misereor: “Trong những năm qua, chiếc cầu vững chắc đã nối liền giữa người có của và người có nhu cầu, là một phong trào hợp tác đã liên kết lại với nhau rất nhiều người ở Đức, Phi Châu, Á Châu, Đại Dương Châu và Mỹ Châu La Tinh.”
Tin Giáo Hội Việt Nam
Buổi gặp mặt đầu năm giữa Ban Chủng Sinh và quý phụ huynh Chủng Sinh Ngoại Trú Gp. Nha Trang
Jos. Lưu Kiên
10:04 16/02/2008
Nhằm củng cố sự liên đới hiệp thông giữa Ban Chủng Sinh với gia đình trong việc hướng dẫn và đào tạo ơn gọi trong Giáo Phận, vào lúc 9h30 ngày 16/02/2008 (tức mùng 10 tết), Ban Chủng Sinh đã có buổi gặp gỡ thân mật đầu
năm cùng quý phụ huynh Chủng Sinh Ngoại Trú Gp. Nha Trang. Trong buổi gặp mặt này có sự hiện diện của Cha Đặc trách Ơn Gọi của Giáo Phận JB. Ngô Đình Tiến, Cha Phụ tá đặc trách Chủng Sinh Ngoại Trú (CSNT) Simon Nguyễn Phú Cường, cùng với hai Thầy Phụ tá Bartôlômêô Nguyễn Quang Trung và Thầy Phêrô Nguyễn Đình Phong.
Đầu tiên, Cha Đặc trách đã giới thiệu tổng quát về chương trình huấn luyện đào tạo toàn diện Chủng Sinh Giáo Phận trước khi vào ĐCV Sao Biển Nha Trang qua 4 phương diện: tri thức, đạo đức, nhân bản và mục vụ. Từ khoảng 15 năm qua các CSNT theo học Đại học/Cao đẳng (ĐH/CĐ). Hiện nay, niên khóa 2007-2008 còn 3 lớp từ năm II đến năm IV, với số lượng là 67 em. Nhưng từ niên khóa này, các Chủng sinh không còn theo học tại các trường ĐH/CĐ, mà sẽ được huấn luyện tại Tòa Giám Mục 3 năm (lớp Tập tu), hiện có 28 em thuộc năm I. Hơn nữa từ năm 2007 ĐCV sẽ chiêu sinh hằng năm, nên liền sau thời gian CSNT (tốt nghiệp ĐH/CĐ) hay Tập tu, các Chủng sinh sẽ theo lớp Tiền Chủng viện tại ĐCV Sao Biển khoảng 3-4 tháng trước khi được chọn chính thức vào học tại ĐCV...
Tiếp đó, Cha Phụ tá đặc trách đã trình bày cụ thể cho quý phụ huynh được biết về tình hình sinh hoạt chung của CSNT trong những năm vừa qua cùng với những ưu điểm, khuyết điểm cần khắc phục qua 4 phương diện đào tạo.
Chủng sinh ngoại trú được rèn luyện để tự lo cho bản thân mình, có tinh thần phục vụ, biết làm việc chung, nên anh em CSNT tại mỗi cộng đoàn đều được phân công đi chợ, nấu ăn, quét dọn vệ sinh nhà cửa, và mỗi tuần đều có cuộc họp chung để anh em cùng nhau góp ý, rút kinh nghiệm qua việc sống tình huynh đệ và giữ những quy định chung của CSNT hầu giúp nhau thăng tiến hơn trong đời sống ơn gọi (có thầy Phụ tá tham dự)...
Qua buổi họp, các phụ huynh cũng đã có những ý kiến chia sẻ, tâm tư nguyện vọng để qua đó song hành cùng với các Cha, các Thầy trong việc nâng đỡ, hướng dẫn và đào tạo ơn gọi cho con em của mình hầu trở thành những thợ gặt lành nghề trên cánh đồng truyền giáo của Thiên Chúa. Hơn nữa, đây cũng là cơ hội để các phụ huynh gặp mặt và trò chuyện lẫn nhau,đặc biệt qua bữa cơm thân mật tại TGM, như lời một phụ huynh vui vẻ chia sẻ:" Qua buổi gặp mặt này, chúng tôi cảm thấy rất vui vì có dịp gặp mặt các phụ huynh khác, qua đó trao đổi với nhau những kinh nghiệm để giúp các em sau này trở thành linh mục tốt cho Giáo Hội, và hơn nữa chúng tôi có một điểm chung đó là đều có con đi tu".

Đầu tiên, Cha Đặc trách đã giới thiệu tổng quát về chương trình huấn luyện đào tạo toàn diện Chủng Sinh Giáo Phận trước khi vào ĐCV Sao Biển Nha Trang qua 4 phương diện: tri thức, đạo đức, nhân bản và mục vụ. Từ khoảng 15 năm qua các CSNT theo học Đại học/Cao đẳng (ĐH/CĐ). Hiện nay, niên khóa 2007-2008 còn 3 lớp từ năm II đến năm IV, với số lượng là 67 em. Nhưng từ niên khóa này, các Chủng sinh không còn theo học tại các trường ĐH/CĐ, mà sẽ được huấn luyện tại Tòa Giám Mục 3 năm (lớp Tập tu), hiện có 28 em thuộc năm I. Hơn nữa từ năm 2007 ĐCV sẽ chiêu sinh hằng năm, nên liền sau thời gian CSNT (tốt nghiệp ĐH/CĐ) hay Tập tu, các Chủng sinh sẽ theo lớp Tiền Chủng viện tại ĐCV Sao Biển khoảng 3-4 tháng trước khi được chọn chính thức vào học tại ĐCV...
Tiếp đó, Cha Phụ tá đặc trách đã trình bày cụ thể cho quý phụ huynh được biết về tình hình sinh hoạt chung của CSNT trong những năm vừa qua cùng với những ưu điểm, khuyết điểm cần khắc phục qua 4 phương diện đào tạo.

Qua buổi họp, các phụ huynh cũng đã có những ý kiến chia sẻ, tâm tư nguyện vọng để qua đó song hành cùng với các Cha, các Thầy trong việc nâng đỡ, hướng dẫn và đào tạo ơn gọi cho con em của mình hầu trở thành những thợ gặt lành nghề trên cánh đồng truyền giáo của Thiên Chúa. Hơn nữa, đây cũng là cơ hội để các phụ huynh gặp mặt và trò chuyện lẫn nhau,đặc biệt qua bữa cơm thân mật tại TGM, như lời một phụ huynh vui vẻ chia sẻ:" Qua buổi gặp mặt này, chúng tôi cảm thấy rất vui vì có dịp gặp mặt các phụ huynh khác, qua đó trao đổi với nhau những kinh nghiệm để giúp các em sau này trở thành linh mục tốt cho Giáo Hội, và hơn nữa chúng tôi có một điểm chung đó là đều có con đi tu".
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Video Tòa Khâm Sứ: Thắp Nến cho Công Lý
VietCatholic - Alpha Linh
02:30 16/02/2008
Video Tòa Khâm Sứ: Nguyện cầu cho Tự do tôn giáo và Công Lý
VietCatholic
04:37 16/02/2008
Phiếu ghi danh tham dự Đại Hội Tu Sĩ Toàn Quốc lần II
UB Tu Sĩ HĐGMVN
04:54 16/02/2008

Thư Mời tham dự Đại Hội Tu Sĩ Toàn Quốc lần II
UB Tu Sĩ HĐGMVN
04:55 16/02/2008

Chương trình Đại Hội Tu Sĩ toàn quốc lần II tại Bùi Chu
UB Tu Sĩ HĐGMVN
04:59 16/02/2008
CHƯƠNG TRÌNH TỔNG QUÁT
14/4/2008 – 17/4/2008
1. Ban Tổ Chức
Uỷ ban Tu Sĩ thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam;
Hội Liên hiệp các Bề Trên Thượng Cấp Việt Nam.
2. Thời gian:
Từ ngày 14 tháng 4 năm 2008 đến ngày 17 tháng 4 năm 2008
3. Địa điểm:
TOÀ GIÁM MỤC BÙI CHU
Xã Xuân Ngọc, Huyện Xuân Trường, Tỉnh Nam Định, Việt Nam
4. Nội dung: TU SĨ VÀ NĂM THÁNH 2010
4.1. Đề tài I: Báo cáo tổng quát sinh hoạt Tu Sĩ thuộc 3 Tổng Giáo Phận.
4.2. Đề tài II: Tìm kiếm và đào tạo ơn gọi: Nhìn quá khứ- hướng tương lại.
4.3. Đề tài III: Thẩm định giá trị và cứu xét ơn gọi.
4.4. Đề tài IV: Đào tạo các nhà đào tạo.
4.5. Đề tài V: Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội- Mẫu gương các Tu Sĩ.
4.6. Đề tài VI: Tu Sĩ với Công Nghị 2010.
5. Thành phần tham dự
Quí vị đặc trách Tu sĩ của 26 Giáo phận trong cả nước;
Quí vị Bề Trên Giám Tỉnh các Dòng Tu nam nữ tại Việt Nam;
Quí vị Bề Trên Tổng Quyền các Dòng Tu nam nữ tại Việt Nam;
Quí vị Bề trên các Hội, các Tu Đoàn, Tu Hội nam nữ tại Việt Nam;
Khách mời: các Đức Cha và các Thuyết trình viên.
6. Thuyết trình viên
Bề Trên Giám Tỉnh Dòng Notre Dame
Bề Trên Giám Tỉnh Dòng Tên
Cha Micae Phaolô Trần Minh Huy PSS
Đức Cha Giuse Hoàng Văn Tiệm
Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ.
THỜI KHOÁ BIỂU
Ngày 14/4/2008, Thứ Hai:
17g00: Đón Khách mời và các Tham dự viên;
19g30: Văn Nghệ chào mừng Đại Hội.
Ngày 15/4/2008, Thứ Ba:
07g30: Khai mạc Hội Nghị
07g45: ĐỀ TÀI I: Tổng quát sinh hoạt của các Tu Sĩ thuộc 3 Tổng Giáo Phận.
09g15: ĐỀ TÀI II: Tìm kiếm và đào tạo ơn gọi.
10g45: ĐỀ TÀI III: Thẩm định giá trị và cứu xét ơn gọi.
14g.30: ĐỀ TÀI IV: Đào tạo các nhà đào tạo.
16g15: Bầu đại biểu các miền
Ngày 16/4/2008, Thứ Tư:
7g30: ĐỀ TÀI V: Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội- mẫu gương cho các Tu Sĩ.
9g00: ĐỀ TÀI VI: Tu sĩ và Công nghị 2010.
15g30: Tổng kết.
16g00: Kết thúc (Có thể đi tham quan…)
Ngày 17/4/2008, Thứ Năm
05g00: Thánh lễ (Kính Đức Mẹ)- Bế mạc.
-------------------------------
Uỷ Ban Tu Sĩ thuộc Hội Đồng Giám mục Việt Nam phối hợp với Hội Liên Hiệp Bề Trên Thượng Cấp Việt Nam tổ chức Đại Hội Tu Sĩ Toàn Quốc lần II tại Toà Giám Mục Bùi Chu, từ ngày 14 tháng 4 năm 2008 đến ngày 17 tháng 4 năm 2008. Với ý thức đây là một Đại Hội quan trọng, tổng kểt sinh hoạt Tu Sĩ trong những năm qua và hướng tới tương lai, mà gần nhất là hướng tới Công Nghị 2010- Năm Thánh Giáo Hội Việt Nam.
ĐẠI HỘI TU SĨ TOÀN QUỐC LẦN II
14/4/2008 – 17/4/2008
1. Ban Tổ Chức
Uỷ ban Tu Sĩ thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam;
Hội Liên hiệp các Bề Trên Thượng Cấp Việt Nam.
2. Thời gian:
Từ ngày 14 tháng 4 năm 2008 đến ngày 17 tháng 4 năm 2008
3. Địa điểm:
TOÀ GIÁM MỤC BÙI CHU
Xã Xuân Ngọc, Huyện Xuân Trường, Tỉnh Nam Định, Việt Nam
4. Nội dung: TU SĨ VÀ NĂM THÁNH 2010
4.1. Đề tài I: Báo cáo tổng quát sinh hoạt Tu Sĩ thuộc 3 Tổng Giáo Phận.
4.2. Đề tài II: Tìm kiếm và đào tạo ơn gọi: Nhìn quá khứ- hướng tương lại.
4.3. Đề tài III: Thẩm định giá trị và cứu xét ơn gọi.
4.4. Đề tài IV: Đào tạo các nhà đào tạo.
4.5. Đề tài V: Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội- Mẫu gương các Tu Sĩ.
4.6. Đề tài VI: Tu Sĩ với Công Nghị 2010.
5. Thành phần tham dự
Quí vị đặc trách Tu sĩ của 26 Giáo phận trong cả nước;
Quí vị Bề Trên Giám Tỉnh các Dòng Tu nam nữ tại Việt Nam;
Quí vị Bề Trên Tổng Quyền các Dòng Tu nam nữ tại Việt Nam;
Quí vị Bề trên các Hội, các Tu Đoàn, Tu Hội nam nữ tại Việt Nam;
Khách mời: các Đức Cha và các Thuyết trình viên.
6. Thuyết trình viên
Bề Trên Giám Tỉnh Dòng Notre Dame
Bề Trên Giám Tỉnh Dòng Tên
Cha Micae Phaolô Trần Minh Huy PSS
Đức Cha Giuse Hoàng Văn Tiệm
Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ.
THỜI KHOÁ BIỂU
Ngày 14/4/2008, Thứ Hai:
17g00: Đón Khách mời và các Tham dự viên;
19g30: Văn Nghệ chào mừng Đại Hội.
Ngày 15/4/2008, Thứ Ba:
07g30: Khai mạc Hội Nghị
07g45: ĐỀ TÀI I: Tổng quát sinh hoạt của các Tu Sĩ thuộc 3 Tổng Giáo Phận.
09g15: ĐỀ TÀI II: Tìm kiếm và đào tạo ơn gọi.
10g45: ĐỀ TÀI III: Thẩm định giá trị và cứu xét ơn gọi.
14g.30: ĐỀ TÀI IV: Đào tạo các nhà đào tạo.
16g15: Bầu đại biểu các miền
Ngày 16/4/2008, Thứ Tư:
7g30: ĐỀ TÀI V: Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội- mẫu gương cho các Tu Sĩ.
9g00: ĐỀ TÀI VI: Tu sĩ và Công nghị 2010.
15g30: Tổng kết.
16g00: Kết thúc (Có thể đi tham quan…)
Ngày 17/4/2008, Thứ Năm
05g00: Thánh lễ (Kính Đức Mẹ)- Bế mạc.
-------------------------------
Cha Giám tỉnh DCCT và các linh mục đến từ Saigòn kết thúc chuyến thăm Tu viện Thái Hà
PV VietCatholic
05:33 16/02/2008
THÁI HÀ, Hà Nội -- Chiều ngày 15.02.2008, Cha Giuse Phạm Trung Thành, Giám Tỉnh DCCT Việt Nam, đã cùng 11 cha DCCT dâng thánh lễ tạ ơn kết thúc hai ngày thăm viếng Tu viện và Giáo xứ Thái Hà.
Kết thúc Cha Bề trên Giuse Trịnh Ngọc Hiên đã thay mặt các linh mục, tu sĩ và giáo dân Thái Hà cám ơn Cha Giám Tỉnh và hy vọng lần tới ngài có thể ở lại Hà Nội lâu hơn và chia sẻ với Giáo xứ Thái Hà nhiều hơn.
Cha Vinhsơn Phạm Trung Thành đã cám ơn sự đón tiếp của Giáo xứ Thái Hà. Ngài nói bầu khí nhà thờ hôm nay như bầu khí của một gia đình mà con cái sum họp quanh Thiên Chúa là Cha. Ngài cũng đặt niềm tin tưởng vào sự hy sinh và lòng can đảm làm chứng cho công lý của anh chị em giáo dân trong Giáo xứ và Ngài khuyến khích cộng đoàn tiếp tục kiên trì cầu nguyện trong ôn hoà. Ngài còn hứa luôn hiệp thông chia sẻ với các linh mục, tu sĩ và giáo dân Thái Hà trong lời cầu nguyện và bằng sự trợ giúp mỗi khi cần.
Sau thánh lễ, Cha Giám Tỉnh và quý cha đồng tế và toàn thể cộng đoàn đã theo thánh giá nến cao ra cầu nguyện tại phố Đức Bà. Khoảng 20 h 30 Cha Giám Tỉnh lại ra thăm viếng, trò chuyện với các cụ ông cụ bà canh thức qua đêm tại phố Đức Bà.
Sáng nay 16.02.2008, lúc 7 h sáng, sau khi khấn Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp và dâng hương kính Đức Mẹ, Cha Giám Tỉnh thánh viên trong phái đoàn đến từ Sài Gòn đã rời Hà Nội.
Kết thúc Cha Bề trên Giuse Trịnh Ngọc Hiên đã thay mặt các linh mục, tu sĩ và giáo dân Thái Hà cám ơn Cha Giám Tỉnh và hy vọng lần tới ngài có thể ở lại Hà Nội lâu hơn và chia sẻ với Giáo xứ Thái Hà nhiều hơn.
Cha Vinhsơn Phạm Trung Thành đã cám ơn sự đón tiếp của Giáo xứ Thái Hà. Ngài nói bầu khí nhà thờ hôm nay như bầu khí của một gia đình mà con cái sum họp quanh Thiên Chúa là Cha. Ngài cũng đặt niềm tin tưởng vào sự hy sinh và lòng can đảm làm chứng cho công lý của anh chị em giáo dân trong Giáo xứ và Ngài khuyến khích cộng đoàn tiếp tục kiên trì cầu nguyện trong ôn hoà. Ngài còn hứa luôn hiệp thông chia sẻ với các linh mục, tu sĩ và giáo dân Thái Hà trong lời cầu nguyện và bằng sự trợ giúp mỗi khi cần.
Sau thánh lễ, Cha Giám Tỉnh và quý cha đồng tế và toàn thể cộng đoàn đã theo thánh giá nến cao ra cầu nguyện tại phố Đức Bà. Khoảng 20 h 30 Cha Giám Tỉnh lại ra thăm viếng, trò chuyện với các cụ ông cụ bà canh thức qua đêm tại phố Đức Bà.
Sáng nay 16.02.2008, lúc 7 h sáng, sau khi khấn Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp và dâng hương kính Đức Mẹ, Cha Giám Tỉnh thánh viên trong phái đoàn đến từ Sài Gòn đã rời Hà Nội.
CĐCG Việt nam TGP Seattle, Washington, hiệp thông cầu nguyện cho giáo dân Hà Nội
Ngọc Tuyền
10:14 16/02/2008
CỘNG ĐỒNG CÔNG GIÁO VIỆT NAM TỔNG GIÁO PHẬN SEATTLE HIỆP THÔNG CẦU NGUYỆN
“Xin anh chị em hãy giữ vững tinh thần cầu nguyện. Hãy cầu nguyện liên lỉ. Hãy cầu nguyện kiên trì. Hãy cầu nguyện tha thiết”. Đó là lời kêu gọi của Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô quang Kiệt trong lá thư đề ngày 1 tháng 2, 2008. Đáp ứng lời kêu gọi trên, Cộng đồng Công giáo Việt Nam Tổng giáo phận Seattle, Washington đã tổ chức Buổi cầu nguyện nhân dịp Lễ Tro chiều thứ Tư ngày 6 tháng 2, 2008, đồng thời là đêm giao thừa của năm Mậu Tý
Trời Seattle vào lúc 7:00 chiều đã tối như mực, cộng thêm với những cơn gió Muà đông thổi xuống từ phía Canada làm Cao Nguyên Tình Xanh Seattle đã lạnh lại càng lạnh thêm. Tuy vậy, nhà thờ vẫn chật ních người với đủ loại tuổi, từ con nít cho đến ông già bà cả. Buổi cầu nguyện trước Lễ được bắt đầu bằng nghi thức tắt đèn và đốt nến do cha Tổng Quản Phêrô Hoàng Phượng, và các Chủ tịch Cộng đoàn cũng như trưởng các Hội đoàn hiện diện. Nội dung cầu nguyện được chiếu lên màn ảnh vỹ đại để mọi người theo dõi. Những người hiện diện đã theo dõi các hình ảnh về những gì đã và đang xảy ra ở Hà Nội, Mỗi hình ảnh đều có các lời cầu nguyện và dẫn giải do các Sơ dòng Mến Thánh Gía Gò-vấp hiện đang tu học và làm việc tại Seattle thực hiện. Những lời nguyện sốt sáng và chân tình qua những hình ảnh cụ thể từ Hà Nội làm nhiều người cảm động. Khi Bài ca Kinh Hoà Bình được hát lên, đã làm cả nhà thờ vang dội. Tiếp đến là lần hạt Mân côi, đọc kinh Dâng Nước Việt Nam cho Trái tim Đức Mẹ. Buổi Cầu nguyện đưọc kết thúc bằng bài hát “ Me rất nhân từ, Việt Nam rất lầm than…”. Sau đó là Thánh Lễ Tro bắt đầu.
Kết thúc buổi cầu nguyện, cha Tổng Quản Nhiệm Phê-rô Hoàng Phượng đã nhắn nhủ toàn thể Giáo dân về tầm quan trọng của “Cầu Nguyện”. Ngài nhắc chúng ta tiếp tục cầu nguyện để dọn mình sống Mùa Chay, đồng thời đáp ứng lời kêu gọi của Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô quang Kiệt là “Hãy cầu nguyện liên lỉ. Hãy cầu nguyện kiên trì. Hãy cầu nguyện tha thiết”.
Khi viết những dòng này, thì tình hình đất Toà Khâm sứ đã có những tiến triển thuận lợi; nhưng kết qủa như lòng chúng ta mong muốn thì chưa nắm trong tay.
“Xin anh chị em hãy giữ vững tinh thần cầu nguyện. Hãy cầu nguyện liên lỉ. Hãy cầu nguyện kiên trì. Hãy cầu nguyện tha thiết”. Đó là lời kêu gọi của Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô quang Kiệt trong lá thư đề ngày 1 tháng 2, 2008. Đáp ứng lời kêu gọi trên, Cộng đồng Công giáo Việt Nam Tổng giáo phận Seattle, Washington đã tổ chức Buổi cầu nguyện nhân dịp Lễ Tro chiều thứ Tư ngày 6 tháng 2, 2008, đồng thời là đêm giao thừa của năm Mậu Tý
Trời Seattle vào lúc 7:00 chiều đã tối như mực, cộng thêm với những cơn gió Muà đông thổi xuống từ phía Canada làm Cao Nguyên Tình Xanh Seattle đã lạnh lại càng lạnh thêm. Tuy vậy, nhà thờ vẫn chật ních người với đủ loại tuổi, từ con nít cho đến ông già bà cả. Buổi cầu nguyện trước Lễ được bắt đầu bằng nghi thức tắt đèn và đốt nến do cha Tổng Quản Phêrô Hoàng Phượng, và các Chủ tịch Cộng đoàn cũng như trưởng các Hội đoàn hiện diện. Nội dung cầu nguyện được chiếu lên màn ảnh vỹ đại để mọi người theo dõi. Những người hiện diện đã theo dõi các hình ảnh về những gì đã và đang xảy ra ở Hà Nội, Mỗi hình ảnh đều có các lời cầu nguyện và dẫn giải do các Sơ dòng Mến Thánh Gía Gò-vấp hiện đang tu học và làm việc tại Seattle thực hiện. Những lời nguyện sốt sáng và chân tình qua những hình ảnh cụ thể từ Hà Nội làm nhiều người cảm động. Khi Bài ca Kinh Hoà Bình được hát lên, đã làm cả nhà thờ vang dội. Tiếp đến là lần hạt Mân côi, đọc kinh Dâng Nước Việt Nam cho Trái tim Đức Mẹ. Buổi Cầu nguyện đưọc kết thúc bằng bài hát “ Me rất nhân từ, Việt Nam rất lầm than…”. Sau đó là Thánh Lễ Tro bắt đầu.
Kết thúc buổi cầu nguyện, cha Tổng Quản Nhiệm Phê-rô Hoàng Phượng đã nhắn nhủ toàn thể Giáo dân về tầm quan trọng của “Cầu Nguyện”. Ngài nhắc chúng ta tiếp tục cầu nguyện để dọn mình sống Mùa Chay, đồng thời đáp ứng lời kêu gọi của Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô quang Kiệt là “Hãy cầu nguyện liên lỉ. Hãy cầu nguyện kiên trì. Hãy cầu nguyện tha thiết”.
Khi viết những dòng này, thì tình hình đất Toà Khâm sứ đã có những tiến triển thuận lợi; nhưng kết qủa như lòng chúng ta mong muốn thì chưa nắm trong tay.
Mỗi người vẫn tiếp tục phải vác thập giá của mình
LM. Phêrô Nguyễn Văn Khải, DCCT
20:05 16/02/2008
Mỗi người vẫn tiếp tục phải vác thập giá của mình
Tin mừng hôm nay thuật rằng sau khi đưa các môn đệ lên núi, thì Chúa biến hình đổi dạng trước mắt các ông. Dung nhan Chúa chói lọi như mặt trời và y phục trở nên trắng tinh như ánh sáng. Các môn đệ nhận ra dung nhan chân thực của Chúa Giêsu, nhận ra tư cách làm Con Thiên Chúa vinh quang và huy hoàng của Ngài. Đó là một Chúa Giêsu khác hẳn một vị thầy thường ngày vẫn lang thang đây đó để rao giảng và cứu giúp.
Các môn đệ cảm thấy sung sướng và hạnh phúc ngất ngây. Các ông muốn sống mãi với tình trạng vinh quang của Chúa, các ông muốn sống mãi với kinh nghiệm hạnh phúc của mình. Các ông không muốn xuống núi. Các ông đã muốn dựng lều ở đó. Một thoáng thiên đàng xuất hiện trước mắt các ông và các ông muốn sống mãi trong cảnh thiên đàng ấy.
Đây cũng là kinh nghiệm rất con người, một kinh nghiệm thường thấy nơi con người. Ông Xuân Diệu trong một bài thơ đã viết rằng: “Tôi muốn tắt nắng đi/ Cho màu đừng nhạt mãi. Tôi muốn gói gió lại/ Cho hương đừng bay đi”. Ông Xuân Diệu muốn sống mãi với cái hương sắc hạnh phúc của mình. Hồi còn ở trung học, tôi có được học truyện Chí Phèo của nhà văn Nam Cao. Tôi thấy Chí Phèo cũng biết vậy. Sau khi gặp gỡ Thị Nở, được Thị Nở cho ăn cháo hành, sau khi hồi sinh ước muốn làm người lương thiện, Chí Phèo nói với Thị Nở: “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ!” Câu nói ấy có khác gì câu nói của thánh Phêrô nói với Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay: “Thưa thầy, chúng con ở đây hay quá! Chúng con xin dựng tại đây 3 lều”.
Chúng ta cũng vậy thôi. Chúng ta vừa trải qua những ngày hội lớn của đức tin ở Toà Khâm Sứ, chứng tỏ sự trưởng thành của giáo dân trong Giáo Phận Hà Nội chúng ta; chúng ta cũng vừa trải qua một cái tết vui tươi và bình an. Tất cả đã khép lại rồi. Nhưng chúng ta dường như ai cũng muốn niềm vui của những ngày ấy được tiếp tục kéo dài. Ước mong sống mãi trong cảnh hạnh phúc, ước mong kéo dài sự huy hoàng là ước mong của mọi người.
Tuy nhiên, ý các môn đệ không phải là ý Chúa. Ý của chúng ta cũng không phải là lẽ đương nhiên. Phải sớm chấm dứt và phải trở về với đời thường như thế mới là tốt và cuộc sống mới tồn tại và phát triển. Phải xuống núi để đi trọn kiếp người và cuộc đời cùng Chúa. Phải thế thôi, vì chính Chúa hôm nay sau phút giây vinh quang, huy hoàng cũng phải xuống núi để đi trọn con đường thập giá của mình. Nếu chưa sống trọn cuộc đời này làm sao có thể hưởng trọn thiên đàng? Nếu chưa đi qua cái chết làm sao có thể chiến thắng khải hoàn trọn vẹn? “Đây là con yêu dấu của Ta (...) Các ngươi hãy vâng nghe lời người”. Một thoáng thiên đàng giờ đây đã biến mất, một thoáng thiên đàng giờ đây đã kết thúc. Chỉ còn vang vọng lệnh truyền “Hãy vâng nghe lời người!”
“Hãy vâng nghe lời người!” Đấy là điều cần phải lắng đọng trong tâm tư chúng ta, những người theo Chúa, trong hoàn cảnh hiện tại của mình là tín hữu của Giáo phận Hà Nội và của Giáo xứ Thái Hà này, nơi hơn đâu hết và hơn lúc nào hết đang cần sự hiệp nhất nên một giữa các thành phần dân Chúa với các vị chủ chăn.
Hạnh phúc và vinh quang của người tin Chúa là ở chỗ ấy. Dám lên núi và cũng dám xuống núi cùng Chúa. Cùng Chúa dám sống những giây phút thăng hoa. Cùng Chúa dám đối diện với những thủ thách gian nguy. Cùng Chúa dám đi trọn con đường thập giá của mình. Khi ấy, chúng ta sẽ được biến hình. Khi ấy chúng ta sẽ được sống trong hạnh phúc. Khi ấy chúng ta sẽ chiếu toả vinh quang của TC cho những người xung quanh.
Tôi nhớ đến bộ phim tài liệu đọat giải nhất của Liên hoan phim toàn quốc năm 1995. Đó là bộ phim Chuyện từ một góc công viên của đạo diễn Trần Văn Thuỷ. Bộ phim mở đầu bằng cảnh chụp hình ở công viên Lênin và kết thúc bằng một cảnh cầu nguyện đọc kinh trước hang đá Đức Mẹ ở nhà thờ Hàm Long, giáo xứ hàng xóm của Thái Hà chúng ta đây. Nội dung bộ phim nói về cuộc sống của gia đình anh Sơn, thuộc giáo xứ Hàm Long. Anh vốn là cựu binh thời chiến tranh 1954-1975. Do bị ảnh hưởng của chất độc màu vàng da cam, hai người con anh sinh ra đã bị tật nguyền. Người con gái lớn sống như một sinh vật. Mọi sinh họat duy trì sự sống đều phải cậy nhờ người khác. Người con trai còn lại bị mù loà. Để đảm bảo cuộc sống của cả gia đình, anh làm thợ chụp ảnh dạo ở công viên Lênin. Vợ anh làm nghề may tại nhà. Bố anh đưa cháu trai mù loà đi học. Mẹ anh bán nước chè trên vỉa hè.
Gia cảnh như thế người ta tưởng không có gì là lạ khi hạnh phúc và bình an vắng bóng. Thế nhưng không phải vậy. Gia đình anh rất hạnh phúc. Hạnh phúc trong tình yêu thương đùm bọc, chung thuỷ và hy sinh phục vụ nhau. Gia đình anh rất bình an. Người ta có thể thấy sự bình an tràn ngập ngôi nhà nhỏ bé của anh. Người ta có thể thấy sự bình an chiếu toả trên khuôn mặt mỗi con người trong gia đình ấy. Nhất là trên khuôn mặt người vợ của anh Sơn. Đạo diễn Trần Văn Thuỷ trong một dịp trò chuyện với chúng tôi về bộ phim tại tu viện DCCT Hà Nội đã chia sẻ rằng chính sự bình an toả rạng trên khuôn mặt và trong giọng nói của những người trong nhà này đã hấp dẫn ông, khiến ông hay đến thăm và cuối cùng đã quyết định làm một bộ phim tài liệu về gia đình này.
Bộ phim kết thúc bằng cảnh mẹ anh Sơn và người bạn đời của anh đọc kinh Lạy Cha, kính mừng cầu nguyện trước hang đá Đức Mẹ ở nhà thờ Hàm Long. Tôi thấy rằng, gia đình anh Sơn cho đến nay tiếp tục vẫn tiếp tục phải đương đầu với những khó khăn và thử thách của đời thường muôn mặt. Mỗi người vẫn tiếp tục phải vác thập giá của mình. Nhưng tôi tin rằng gia đình anh đang được biến hình trong Chúa khi can đảm và quảng đại vác thập giá cùng Chúa và bằng cuộc sống đời thường của mình, gia đình đang chiếu toả vẻ huy hoàng tốt đẹp của Chúa cho những người xung quanh.
Ai trong chúng ta cũng muốn đổi đời để được hạnh phúc. Cầu xin cho chúng ta biết góp phần xây dựng cuộc hạnh phúc ấy bằng cách can đảm cùng Chúa đón nhận những thập giá của đời thường hiện còn đang chất đầy trong cuộc đời chúng ta, trong Giáo phận Hà Nội và Giáo xứ Thái Hà chúng ta. Amen.
Tin mừng hôm nay thuật rằng sau khi đưa các môn đệ lên núi, thì Chúa biến hình đổi dạng trước mắt các ông. Dung nhan Chúa chói lọi như mặt trời và y phục trở nên trắng tinh như ánh sáng. Các môn đệ nhận ra dung nhan chân thực của Chúa Giêsu, nhận ra tư cách làm Con Thiên Chúa vinh quang và huy hoàng của Ngài. Đó là một Chúa Giêsu khác hẳn một vị thầy thường ngày vẫn lang thang đây đó để rao giảng và cứu giúp.
Các môn đệ cảm thấy sung sướng và hạnh phúc ngất ngây. Các ông muốn sống mãi với tình trạng vinh quang của Chúa, các ông muốn sống mãi với kinh nghiệm hạnh phúc của mình. Các ông không muốn xuống núi. Các ông đã muốn dựng lều ở đó. Một thoáng thiên đàng xuất hiện trước mắt các ông và các ông muốn sống mãi trong cảnh thiên đàng ấy.
Đây cũng là kinh nghiệm rất con người, một kinh nghiệm thường thấy nơi con người. Ông Xuân Diệu trong một bài thơ đã viết rằng: “Tôi muốn tắt nắng đi/ Cho màu đừng nhạt mãi. Tôi muốn gói gió lại/ Cho hương đừng bay đi”. Ông Xuân Diệu muốn sống mãi với cái hương sắc hạnh phúc của mình. Hồi còn ở trung học, tôi có được học truyện Chí Phèo của nhà văn Nam Cao. Tôi thấy Chí Phèo cũng biết vậy. Sau khi gặp gỡ Thị Nở, được Thị Nở cho ăn cháo hành, sau khi hồi sinh ước muốn làm người lương thiện, Chí Phèo nói với Thị Nở: “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ!” Câu nói ấy có khác gì câu nói của thánh Phêrô nói với Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay: “Thưa thầy, chúng con ở đây hay quá! Chúng con xin dựng tại đây 3 lều”.
Chúng ta cũng vậy thôi. Chúng ta vừa trải qua những ngày hội lớn của đức tin ở Toà Khâm Sứ, chứng tỏ sự trưởng thành của giáo dân trong Giáo Phận Hà Nội chúng ta; chúng ta cũng vừa trải qua một cái tết vui tươi và bình an. Tất cả đã khép lại rồi. Nhưng chúng ta dường như ai cũng muốn niềm vui của những ngày ấy được tiếp tục kéo dài. Ước mong sống mãi trong cảnh hạnh phúc, ước mong kéo dài sự huy hoàng là ước mong của mọi người.
Tuy nhiên, ý các môn đệ không phải là ý Chúa. Ý của chúng ta cũng không phải là lẽ đương nhiên. Phải sớm chấm dứt và phải trở về với đời thường như thế mới là tốt và cuộc sống mới tồn tại và phát triển. Phải xuống núi để đi trọn kiếp người và cuộc đời cùng Chúa. Phải thế thôi, vì chính Chúa hôm nay sau phút giây vinh quang, huy hoàng cũng phải xuống núi để đi trọn con đường thập giá của mình. Nếu chưa sống trọn cuộc đời này làm sao có thể hưởng trọn thiên đàng? Nếu chưa đi qua cái chết làm sao có thể chiến thắng khải hoàn trọn vẹn? “Đây là con yêu dấu của Ta (...) Các ngươi hãy vâng nghe lời người”. Một thoáng thiên đàng giờ đây đã biến mất, một thoáng thiên đàng giờ đây đã kết thúc. Chỉ còn vang vọng lệnh truyền “Hãy vâng nghe lời người!”
“Hãy vâng nghe lời người!” Đấy là điều cần phải lắng đọng trong tâm tư chúng ta, những người theo Chúa, trong hoàn cảnh hiện tại của mình là tín hữu của Giáo phận Hà Nội và của Giáo xứ Thái Hà này, nơi hơn đâu hết và hơn lúc nào hết đang cần sự hiệp nhất nên một giữa các thành phần dân Chúa với các vị chủ chăn.
Hạnh phúc và vinh quang của người tin Chúa là ở chỗ ấy. Dám lên núi và cũng dám xuống núi cùng Chúa. Cùng Chúa dám sống những giây phút thăng hoa. Cùng Chúa dám đối diện với những thủ thách gian nguy. Cùng Chúa dám đi trọn con đường thập giá của mình. Khi ấy, chúng ta sẽ được biến hình. Khi ấy chúng ta sẽ được sống trong hạnh phúc. Khi ấy chúng ta sẽ chiếu toả vinh quang của TC cho những người xung quanh.
Tôi nhớ đến bộ phim tài liệu đọat giải nhất của Liên hoan phim toàn quốc năm 1995. Đó là bộ phim Chuyện từ một góc công viên của đạo diễn Trần Văn Thuỷ. Bộ phim mở đầu bằng cảnh chụp hình ở công viên Lênin và kết thúc bằng một cảnh cầu nguyện đọc kinh trước hang đá Đức Mẹ ở nhà thờ Hàm Long, giáo xứ hàng xóm của Thái Hà chúng ta đây. Nội dung bộ phim nói về cuộc sống của gia đình anh Sơn, thuộc giáo xứ Hàm Long. Anh vốn là cựu binh thời chiến tranh 1954-1975. Do bị ảnh hưởng của chất độc màu vàng da cam, hai người con anh sinh ra đã bị tật nguyền. Người con gái lớn sống như một sinh vật. Mọi sinh họat duy trì sự sống đều phải cậy nhờ người khác. Người con trai còn lại bị mù loà. Để đảm bảo cuộc sống của cả gia đình, anh làm thợ chụp ảnh dạo ở công viên Lênin. Vợ anh làm nghề may tại nhà. Bố anh đưa cháu trai mù loà đi học. Mẹ anh bán nước chè trên vỉa hè.
Gia cảnh như thế người ta tưởng không có gì là lạ khi hạnh phúc và bình an vắng bóng. Thế nhưng không phải vậy. Gia đình anh rất hạnh phúc. Hạnh phúc trong tình yêu thương đùm bọc, chung thuỷ và hy sinh phục vụ nhau. Gia đình anh rất bình an. Người ta có thể thấy sự bình an tràn ngập ngôi nhà nhỏ bé của anh. Người ta có thể thấy sự bình an chiếu toả trên khuôn mặt mỗi con người trong gia đình ấy. Nhất là trên khuôn mặt người vợ của anh Sơn. Đạo diễn Trần Văn Thuỷ trong một dịp trò chuyện với chúng tôi về bộ phim tại tu viện DCCT Hà Nội đã chia sẻ rằng chính sự bình an toả rạng trên khuôn mặt và trong giọng nói của những người trong nhà này đã hấp dẫn ông, khiến ông hay đến thăm và cuối cùng đã quyết định làm một bộ phim tài liệu về gia đình này.
Bộ phim kết thúc bằng cảnh mẹ anh Sơn và người bạn đời của anh đọc kinh Lạy Cha, kính mừng cầu nguyện trước hang đá Đức Mẹ ở nhà thờ Hàm Long. Tôi thấy rằng, gia đình anh Sơn cho đến nay tiếp tục vẫn tiếp tục phải đương đầu với những khó khăn và thử thách của đời thường muôn mặt. Mỗi người vẫn tiếp tục phải vác thập giá của mình. Nhưng tôi tin rằng gia đình anh đang được biến hình trong Chúa khi can đảm và quảng đại vác thập giá cùng Chúa và bằng cuộc sống đời thường của mình, gia đình đang chiếu toả vẻ huy hoàng tốt đẹp của Chúa cho những người xung quanh.
Ai trong chúng ta cũng muốn đổi đời để được hạnh phúc. Cầu xin cho chúng ta biết góp phần xây dựng cuộc hạnh phúc ấy bằng cách can đảm cùng Chúa đón nhận những thập giá của đời thường hiện còn đang chất đầy trong cuộc đời chúng ta, trong Giáo phận Hà Nội và Giáo xứ Thái Hà chúng ta. Amen.
Tài Liệu - Sưu Khảo
Một khi ảo tưởng đã qua đi, những gì sẽ còn lại?
Lm Nguyễn Hữu Thy
04:11 16/02/2008
Một khi các ảo tưởng đã qua đi, những gì sẽ còn lại?
Trước hết, một điều chúng ta cần phải khẳng định là sứ mệnh trọng yếu của Giáo Hội giữa lòng trần thế, là làm chứng nhân cho Đức Kitô, cho Tin Mừng Cứu Rỗi của Người. Do đó, Giáo Hội đóng vai trò người hướng dẫn chỉ lối cho trần thế, chứ Giáo Hội không nhất thiết luôn luôn phải chạy theo những thay đổi của não trạng trần thế và tìm cách đáp ứng bằng mọi giá các đòi hỏi thay đổi không ngừng của thời đại. Vâng, Giáo Hội chỉ cho con đường dẫn đưa thế giới ra khỏi cơn khủng hoảng. Tuy nhiên, Giáo Hội cũng cần phải ý thức được lầm lỗi của mình, hầu Giáo Hội có thể phát huy được sức mạnh có khả năng chi phối nền văn hóa nhân loại mà Giáo Hội hằng nắm giữ.
Trở lại vấn đề. Các ảo tưởng là một vấn đề cũng cũ kỹ như chính con người vậy. Nhưng rồi một khi người ta đề xuất ra những tư duy mới mẻ nào đó và nhờ thế mở ra những nhãn quan mới về cuộc sống, thì việc hiện thực những tư duy mới mẻ đó được gọi là một hành động «cách mạng», mà điểm đầu tiên phải quy chiếu thuộc về lãnh vực lý trí và tự do của «Homo faber» và của «Homo scientiae». Nhưng một lý trí chủ quan, tức một lý trí chỉ dựa trên chính mình, và một sự tự do không tuân theo bất cứ một quy luật hay điều lệ nào – những điều kiện nền tảng tất yếu của một xã hội - thì cả hai đều không hành động đúng chức năng và phạm vi của mình.
Theo thánh Toma Aquinô thì con người là một lữ hành (viator) luôn bước đi trên một con đường kép - một bên là con đường của sự suy luận phù hợp với lý trí và một bên khác là con đường của đức tin – và con đường kép đó cùng nhắm dẫn tới một mục đích duy nhất. Nhưng con đường của con người là con đường sám hối quay trở về với nguồn chân lý, cứu cánh của mình. Vì thế, nếu con người đánh mất sự ý thức này, con người sẽ đánh mất đi chính nội tâm của mình và sẽ rơi vào trong vực sâu của sự hiện hữu của mình. Vì cùng một con đường, nhưng nó có thể dẫn đưa chúng ta đi lên hay cũng có thể dẫn chúng ta vào vực thẳm hư vô. Chính triết gia thời danh Hy-lạp Heraklit Von Ephesos (540-480: trước Công nguyên), cũng đã ý thức được như thế. Vâng, cùng một con đường có thể dẫn con người dừng chân lại trong cái đã đạt được hay trong cái đang nằm trong tư duy. Con người bị đẩy vào thế bị động, bị đặt vào tình trạng căng thẳng ngay từ giây phút chào đời.
Biến động năm 1968 ở Tây Phương, một bước ngoặt văn hóa bất khả lùi lại
Trong khoảng thời gian từ năm 1968 đến năm 2008 hôm nay, bốn mươi năm đã trôi qua kể từ khi một bước ngoặt về văn hóa xảy ra, một bước ngoặt đã đưa tới một sự thay đổi bất khả lùi lại. Bước ngoặt đó đã trình bày cho tầng lớp thanh niên cũng như người có tuổi một tư tưởng vĩ đại về một cuộc cách mạng đầy ảo tưởng. Dĩ nhiên, không theo nghĩa một cuộc xung đột hay một cuộc nổi dậy bằng vũ lực của các tầng lớp đại chúng - như cuộc «cách mạng văn hóa» đẫm máu và phản văn hoá của nhà độc tài Mao Trạch Đông ở Trung Hoa - nhưng theo nghĩa văn hóa thực sự, nghĩa là truyền bá cho con người một hình thức tư duy và một kiểu sống hoàn toàn mới. Nhưng, phải chăng con đường dẫn đi lên và đi xuống cũng chỉ là một con đường? Thế hệ «cách mạng» - có người cũng gọi la thế hệ nổi loạn - năm 1968 đã trở nên già nua, và chính tư tưởng «cách mạng» do chính họ sử dụng - hay điều khiển họ - vào những năm xa xôi ấy cũng đã cũ kỹ và các hiệu năng của nó cũng đã dần dà phôi phai mờ nhạt đi. Thế giới ngày nay đã đưa ra một con đường theo kiểu cách khác.
Vâng, thời đại toàn cầu hóa là định nghĩa và là sắc thái mới của thế hệ hôm nay. Trước hết người ta cho rằng hiện tượng toàn cầu hóa quả thực là một hình thức và một không gian hoàn toàn mới mẻ cho việc trao đổi và điều động chất sám của nhân loại. Và hiện tượng toàn cầu hóa cũng đã mau mắn cho thấy rằng, điều được «toàn cầu hóa» nhanh nhất chính là tình trạng luân lý đạo đức của nhân loại, một điều mà có lẽ triết gia Kant sẽ gọi là: Con người đã tìm được chỗ định cư trong thế giới của mình.
Và sự định cư mới mẻ này của con người vượt lên trên các nền văn hóa, các tôn giáo và các ý thức hệ. Vâng, một ý thức hệ duy nhất có thể tồn tại là không ý thức hệ gì cả. Đối với đại đa số thế hệ hôm nay, các lý tưởng trừu tượng, như các ý thức hệ, không còn sức hấp dẫn nữa; trái lại, điều lôi cuốn họ và khiến họ theo đuổi, là sự hạnh phúc thực tiễn của cuộc sống cụ thể. Cả tư tưởng toàn cầu hóa cũng đe dọa trở thành một tư duy chi tiết, bị chi phối bởi chủ nghĩa tiêu thụ và chủ nghĩa vật chất, mà trong đó «trật tự mới của thế giới» chỉ do một số ít người nắm giữ để mưu ích lợi cho cá nhân mình. Trong một khuynh hướng xã hội nặc mùi vật chất như thế, sự đòi hỏi khả năng, tình trạng vô mục đích và vô định hướng, vấn đề tôn giáo, v.v… đều được kê khai như những món hàng trong siêu thị. Đồng thời tiềm năng bạo lực của con người – «con vật» duy nhất có sở thích tiềm ẩn về chém giết – gia tăng nhanh và tìm gặp được đặc biệt nơi tầng lớp người trẻ một chỗ thuận lợi để xuất hiện. Tất cả đều là hậu quả của tình trạng dửng dưng, bất cần của con người, và đồng thời cũng là một sự bộc lộ não trạng ý thức hệ hay tôn giáo cực đoan, như chúng ta chứng kiến hiện nay nơi một số tín đồ Hồi giáo.
Dĩ nhiên, một số câu hỏi được đặt ra cho các Kitô hữu là: Cái «bản đồ» đời sống Kitô hữu và đời sống Giáo Hội của họ ra sao? Đời sống Giáo Hội đã bị và đang bị tổn hại như thế nào? Qua con đường nào Giáo Hội có thể hồi tưởng lại được, nghĩa là quay trở về trong chính cung lòng của mình, để tìm ra được con đường chân lý? – Đàng khác, chính chân lý là con đường!
Ngay khi bắt đầu thiên niên kỷ mới, Đức Gioan Phaolô II - trong Tông Thư kết thúc Năm Thánh 2000 «Novo millenio ineunte» - đã vạch ra một con đường và hoạch định biên giới của nó: «Duc in altum» - (Hãy chèo thuyền ra khơi). Cùng với Chúa Cứu Thế, Đức Thánh Cha đã mời gọi nhân loại hãy can đảm mạo hiểm tiến bước vào một giai đoạn mới của thế giới và của con người. Hãy chèo thuyền ra ngoài biển cả của những cái mới lạ vô danh và hãy thả lưới: «Lời nói đó (của Đức Kitô) ngày nay lại vang vọng trong tai chúng ta và mời gọi chúng ta: Hãy đầy lòng biết ơn tưởng nhớ tới quá khứ, nhiệt tâm sống giây phút hiện tại và đầy tin tường hướng về tương lai, vì chỉ có một Đức Giêsu Kitô: hôm qua, hôm nay và mãi mãi muôn đời!»
Dĩ nhiên, Đức Gioan Phaolô II không giới thiệu cho nhân loại một thứ lạc quan rẻ tiền và có tính cách mị dân. Nhưng Đức Thánh Cha vạch ra một đường hướng chỉ đạo để toàn thể Kitô giáo bước theo, hầu không bị rơi vào trong «vương quốc thế gian», một vương quốc phản loạn chống lại Thiên Chúa.
«Omnia et in omnibus Christus» - Đức Kitô là tất cả và trong tất cả mọi người. Con tim của lịch sử nhân loại được tỏ hiện trên dung nhan của Con Thiên Chúa làm người. Nói cách khác, cái nhìn của Đức Kitô luôn đầy cảm thông và đầy yêu thương. Trong ánh mắt của Người, nhân loại có thể tìm gặp được một câu giải đáp cho những chờ đợi và khắc khoải của mình. Nói cách khác, Đức Kitô là câu giải đáp thoả đáng duy nhất, mà nhân loại cầu mong. Đúng vậy, không phải sự ảo tưởng hay khí cụ của bất cứ ý thức hệ nào khác, nhưng là chính đức Kitô, chân lý mặc xác phàm, sẽ chỉ cho nhân loại con đường chân lý của Người. «Duc in altum» - Hãy chèo thuyền ra khơi và hãy sống trong sự tìm kiếm thánh nhan Thiên Chúa.
Tất cả những sào huyện cũ của các thứ ý thức hệ - tinh thần quốc gia quá khích (Đức quốc xã), chủ nghĩa cộng sản duy vật vô thần (Liên Sô), khuynh hướng thần học vô thần (phong trào 1968), v.v… đều đã đã bị giải thể và phá tán. Những chế độ chính trị tàn bạo, từng tìm cách loại bỏ tính chất cá biệt để mong đạt tới niềm hy vọng nội tại, cũng đã lùi vào quá khứ. Thay thế vào chỗ của tất cả ý thức hệ đó là một suy tư có cơ cấu về sự tiến bộ, trong đó sự mới mẻ có thể tìm được đất đứng, hầu có thể trở thành một phần của văn hóa tiến bộ. Vào thập niên sáu mươi, quyền bính đã bị đặt thành vấn đề, vì người ta quan niệm rằng, quyền bính không phải là một điều chỉ thuộc về những giai cấp nắm giữ quyền hành hay những định chế truyền thống trong xã hội như gia đình, nhưng là những hình thức giao lưu, các hình thái hay dạng thức và những xung động mang tính cách sư phạm. Qua đó, người ta thấy rằng con nguời ngày nay có khuynh hướng tương đối hóa tất cả mọi quan hệ và mọi liên lạc trong xã hội.
Tuy nhiên, chủ nghĩa tương đối hóa này không phải là hiệu quả duy nhất của một thái độ chủ quan. Nhưng lý do của thái độ chủ quan hệ ở việc đặt tính cách khách quan lệ thuộc vào lãnh vực trực thuộc dụng cụ thuần túy. Việc loại bỏ nền văn hóa tinh thần một cách chủ quan sẽ dẫn tới sự độc đoán của chủ nghĩa duy vật, một chủ nghĩa thường chứa đựng một sự mâu thuẩn nội tại. Một đàng, sự thống trị độc đoán mới này sẽ chèn ép và tìm cách xóa bỏ dần nền văn hóa Tây Phương cũng như gốc rễ Kitô giáo của nó, và một đàng khác, nó gây cho người ta có một ấn tượng là chính nền văn hóa đó tự đào thải chính mình, như Đức Bênêđíctô XVI thường nói. Nhân danh một khoa học đã rời bỏ phạm vi chuyên môn của mình và đã trở thành «một cái gì khác», thì nền tảng của chính thế giới Tây Phương đã bị đưa bán đứng và bị tấn cống một cách dữ dội. Một vũ trụ quan trọng về luân lý và đạo đức hoàn toàn phù hợp với luật lệ của đạo lý tự nhiên, sẽ là một cản trở cơ bản chống lại chủ nghĩa duy vật nặc mùi ý thức hệ và khoa học nắm giữ quyền chi phối toàn diện. Kitô giáo nói chung và Giáo Hội Công giáo nói riêng vốn nắm giữ trong mình luật luân lý tự nhiên, điều kiện để hiện thực bản sắc hiện hữu của mình, vì thế Giáo Hội đã trở thành kẻ thù số một của chủ nghĩa duy vật.
Đức Bênêđíctô XVI đã chỉ cho nhân loại biết rằng, họ không được phép để cho mình bị lôi cuốn bởi một «kiểu sống hời hợt» do khoa học và kỹ thuật đưa ra. Bởi vì một kiểu sống như thế không chứa đựng trong mình sự tự do thật sự, nhưng sẽ đưa dẫn tới vực thẳm của sự nô lệ, trong đó con người sẽ trở thành hỏa ngục cho nhau. Đức Thánh Cha quả quyết rằng: «Sự tiến bộ tích luỹ chỉ xảy ra trong lãnh vực vật chất mà thôi». Còn «trong lãnh vực nhận thức đạo đức và quyết định luân lý, người ta không còn có khả năng tích luỹ tương tự như thế, vì lý do đơn giản là sự tự do của con người luôn luôn mới mẻ và quyết định của sự tự do cũng phải luôn luôn mới mẻ» (TĐ. Spe Salvi, số 24).
Sai lầm của Giáo Hội trong vòng những thập niên vừa qua: Giáo Hội không nhận ra được những khúc mắc của não trạng hiện đại
Đối với Đức Bênêđíctô XVI, tự do không phải là một sở hữu vật chỉ cần chiếm giữ được một lần là đủ, nhưng nó luôn luôn đòi hỏi một sự chấp thuận mới của ý chí trong việc thực thi sự thiện hảo. Bởi vì, nếu sự tự do bị áp đặt, thì sự tự do chỉ được hiện thực trong một khuôn khổ đã được dựng sẵn, và như thế sự tự do sẽ mất đi ý nghĩa của nó và không còn là tự do nữa. Đức Bênêđíctô XVI đã thức tỉnh tất cả các thế hệ hãy khẩn cấp quan tâm đế sự cần thiết, là phải đạt được sự tự do. Con người không được hoàn toàn khoán trắng cho các cấu trúc, bởi vì «Tình trạng tốt đẹp của xã hội loài người và tình trạng đạo đức của thế giới sẽ không bao giờ được bảo đảm chỉ nhờ vào các cấu trúc mà thôi, dù chúng có tốt đến đâu đi nữa» (Spe Salvi 24). Và «con người không thể đơn giản được cứu rỗi từ bên ngoài» (Spe Salvi 25). Một khoa học đúng đắn «có thể đóng góp nhiều vào việc xây dựng thế giới và con người có nhân bản hơn. Nhưng khoa học cũng có thể hủy diệt con người và thế giới, trừ khi nó được hướng dẫn bởi những sức mạnh bên ngoài nó. Ngược lại, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng Kitô giáo trong thời tân tiến, khi trực diện với những thành công của khoa học trong việc xây dựng thế giới một cách tiến bộ hơn, trên một quy mô rộng lớn, đã hạn chế sự chú ý đến các cá nhân và ơn cứu độ của họ. Khi làm như thế, Kitô giáo đã giới hạn chiều kích niềm hy vọng của mình và không nhận ra đầy đủ sự cao cả trong sứ mệnh của mình – ngay cả khi Kitô giáo tiếp tục đạt được những thành tựu to lớn trong việc đào tạo và chăm sóc cho những người yếu thế và đau khổ.» (Spe Salvi 25).
Con đường của Kitô giáo và của Giáo Hội trong tương lai tùy thuộc vào việc đề xuất ra được «chiều kích hy vọng». Nghĩa là: Sự tự phụ hay tự mãn trong phương diện Giáo Hội và thần học là một thái độ đi ngược lại sứ mệnh truyền giáo mà Đức Kitô đã giao phó, là mang đến cho nhân loại niềm hy vọng. Đức Thánh Cha kêu mời toàn thể Kitô giáo hãy rao truyền chân lý của Ngôi Lời mặc xác phàm với một sự xác tín sâu xa, vì chân lý của ơn cao cả đó không chỉ mang đến cho nội tâm con người sự phong phú, nhưng nó còn phong phú hoá cả toàn thể nhân loại nữa. Chính Đức Kitô đã được Chúa Cha trao phó cho sứ mệnh mang sứ điệp đó vào trong thế gian, khi Người nhập thế và mặc lấy xác phàm.
Trong những thập niên vừa qua, Giáo Hội đã phạm những sai lầm. Đó là Giáo Hội đã không nhận chân được những khúc mắc của não trạng tân thời. Các «vũ khí» của Giáo Hội đã trở nên vô hiệu lực. Nền thần học của giáo Hội hoặc trở nên quá trừu tượng sâu kính, hoặc có tính cách duy trí – xa vời với chân lý và sứ mệnh của Giáo Hội. Nếu Giáo Hội không còn nhận chân ra được «đức tin và lý trí» như là chủ đề chính yếu của mình, nếu Giáo Hội bỏ rơi lòng đạo đức của những người đơn sơ bé nhỏ, nếu Giáo Hội chỉ rao giảng, chứ không sống điều mình rao giảng, nếu Giáo Hội không bắt đầu lại một cách mới mẻ trong sứ mệnh phụng sự Thiên Chúa, trong chương trình Phụng Vụ, thì Giáo Hội không còn gì khác để có thể tự phân biệt được với những sinh hoạt thế gian nữa. Giáo Hội sẽ mất hết khí giới của mình và như thế Giáo Hội sẽ mất dần cả đất đứng nữa. Cuộc sống bị tục hóa một cách nhanh chóng khủng khiết và làn sóng bỏ đạo ồ ạt hiện nay tại lục địa Âu Châu Kitô giáo là lời cảnh cáo nghiêm trọng. Trong bức thông điệp Spe Salvi, Đức Bênêđíctô XVI đã dứt khoát đòi hỏi thế giới Kitô giáo nói chung và Giáo Hội nói riêng cần phải tự phê bình chính mình. Điều đó có nghĩa là trước hết phải biết mở rộng con mắt để nhìn thấy được rằng, sau bao nhiêu năm sống trên sự hời hợt nông cạn, trên sự giả tạo và trên thái độ bất quan tâm trước sự hy sinh mất mát của các tầng lớp tín hữu, đức tin cần phải được canh tân và sưởi ấm lại một cách mới mẻ và đầy sức sống. Đời sống tâm linh có những đòi hỏi nhất định của nó và nêu lên cho người tín hữu một trách nhiệm rõ ràng, đó là phải luôn ý thức đầy đủ về niềm hy vọng hằng tác động trong chúng ta. Nhưng phải chăng vẫn còn sống động trong chúng ta một niềm hy vọng nào đó? Hay tất cả mọi nhận thức về niềm hy vọng đã hoàn toàn bị chôn vùi sâu dưới đống gạch đổ nát của vô ý thức?
Đức Bênêđíctô muốn cho các Kitô hữu nhận ra được những đòi hỏi cao cả, xuất phát từ việc:
• Con Thiên Chúa từ trong cung lòng đầy ân sủng của Chúa Cha đã được sinh ra cho con người;
• Người là Đấng đã làm cho chân lý trở nên hữu hình trên chính con người của Người;
• Người đã chịu chết cho tất cả những ai đón nhận Người, hầu mang lại hạnh phúc cho toàn thể nhân loại.
Để không có gì trong vũ trụ này có thể dửng dưng đối với thành quả này được, Đức Thánh Cha đã không ngừng khơi dậy tâm thức tôn giáo nơi các Kitô hữu trong tập niên đầu tiên của thiên niên kỷ mới này. Kitô giáo cần phải có khả năng thuyết phục được thế giới biết chấp nhận chân lý cơ bản này, đó là: Đức Kitô là câu giải đáp duy nhất và là cứu cánh cho mọi tìm kiếm của con người. Sự khao khát tình yêu thương, sự cứu rỗi và sự sung mãn, tư tưởng về vĩnh cửu, sự tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống, v.v… Đó là tất cả những điểu Đức Thánh Cha muốn trao ban tận tay con người như hành trang trên bước đường đời của họ. Mỗi người Kitô hữu đã được mời gọi đi khám phá ra dung nhan Đức Kitô.
Thiên Chúa nhập thể là câu giải đáp cho tất cả mọi thắc mắc, là nguyên ủy của sự tự do và là nền tảng của niềm hy vọng
Con người cần phải hành động ra sao? «Cum Petro et sub Petro» - với Phêrô và dưới Phêrô, tất cả mọi Kitô hữu phải đặt Thiên Chúa lên địa vị hàng đầu trong tất cả mọi tương quan của cuộc sống. Giáo Hội cần tới các cơ cấu, nhưng các cơ cấu không được trở thành mục đích tuyệt đối. Mầu nhiệm phải là tâm điểm. Con đường của người Kitô hữu chạy qua một «sự khai tâm», giúp anh hòa hợp với lịch sử trong thế giới riêng tư của anh. Người Kitô hữu không đơn giản mô phỏng theo các yếu tố của vũ trụ và «Kitô hóa» chúng một cách áp đặt. Anh không đi nhà thờ, không sử dụng «musica sacra» như phương tiện để tìm lại chính mình. Anh cũng không quỳ trước Phép Thánh Thể, «như thể» có Chúa ngự trong đó.
Không! Người Kitô hữu thực sự tìm lại được chính mình khi anh đến với Thiên Chúa. Thiên Chúa không phải là phương tiện cho anh tìm lại được chính mình, nhưng là mục đích sự tìm kiếm của anh. Vì anh hiện hữu trong Thiên Chúa. Do đó, tìm gặp được Thiên Chúa là tìm gặp được chính mình. Con đường phụng vụ không phải là con đường của một cuộc tổ chức gặp mặt chung trong một chỗ công cộng, nhưng là nơi của sự định hướng chung cùng tiến về Đấng Duy Nhất. Trên con đường phụng vụ, vị Linh mục hướng dẫn cộng đồng Dân Chúa cùng hướng nhìn và tiến về cùng Thiên Chúa, Đấng hằng thôi thúc lôi kéo họ qua tác động của Thánh Linh. «Thân mình mầu nhiệm» của Đức Kitô, tức Giáo Hội, qui tụ tất cả mọi Kitô hữu vào trong một cộng đồng của ân sủng Thiên Chúa. Cuộc sống này kêu mời tất cả các Kitô hữu hãy nổ lực xây dựng thế giới.
Trong Tông thư « Novo Millenio Ineunte» Đức Gioan Phaolô II đã khẳng định rằng một chủ thuyết duy lý của nền văn hóa tân thời đã tạo ra cho đức tin vào Thiên tính Đức Kitô những thách đố nặng nề, ngược lại với trong quá khứ, người ta đã có khuynh hướng giảm thiểu hay chối bỏ nhân tính cụ thể của Đức Kitô lịch sử. Bởi vậy, cùng với thánh Phaolô, Đức Gioan Phaolô II đã minh xác rằng trọng tâm đức tin của Giáo Hội là tin nhận Ngôi Lời đã thực sự mặc lấy xác phàm và «đã chấp nhận tất cả mọi chiều kích nhân loại, ngoại trừ tội lỗi.» Đức Giêsu là con người mới, Đấng «kêu mời nhân loại đã được cứu rỗi tham dự vào cuộc sống thần linh của Người». Do đó, từ nay các nguyên tắc cơ bản của khoa nhân chủng học chân chính phải được đặt nền móng trên mầu nhiệm nhập thể, vì chính Thiên Chúa tác động trong đó, và qua Đức Kitô, Ngôi Lời nhập thể, con người đã được cứu rỗi, được dự phần vào cuộc sống thần linh của Ba Ngôi Thiên Chúa. Dựa theo chiều kích cứu độ đó, các Thánh Phụ đã quả quyết rằng: Chỉ vì Con Thiên Chúa đã thực sự làm người, nên trong Người và qua Người, con người mới có thể thực sự trở nên con Thiên Chúa (xem số 23).
Nói tóm lại, chỉ một mình Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, là câu giải đáp duy nhất cho tất cả mọi vấn nạn, cho mọi khao khát và mọi tình cảm của cuộc sống con người, là nguyên ủy của sự tự do và nền tảng của niềm hy vọng. Mọi chân lý của nhân loại đều phải đặt cơ sở trên Logos Thiên Chúa, trên Vị Thẩm Phán chí công độc nhất, vì Người là Chân Lý tối hậu của mọi chân lý.
Trước hết, một điều chúng ta cần phải khẳng định là sứ mệnh trọng yếu của Giáo Hội giữa lòng trần thế, là làm chứng nhân cho Đức Kitô, cho Tin Mừng Cứu Rỗi của Người. Do đó, Giáo Hội đóng vai trò người hướng dẫn chỉ lối cho trần thế, chứ Giáo Hội không nhất thiết luôn luôn phải chạy theo những thay đổi của não trạng trần thế và tìm cách đáp ứng bằng mọi giá các đòi hỏi thay đổi không ngừng của thời đại. Vâng, Giáo Hội chỉ cho con đường dẫn đưa thế giới ra khỏi cơn khủng hoảng. Tuy nhiên, Giáo Hội cũng cần phải ý thức được lầm lỗi của mình, hầu Giáo Hội có thể phát huy được sức mạnh có khả năng chi phối nền văn hóa nhân loại mà Giáo Hội hằng nắm giữ.
Trở lại vấn đề. Các ảo tưởng là một vấn đề cũng cũ kỹ như chính con người vậy. Nhưng rồi một khi người ta đề xuất ra những tư duy mới mẻ nào đó và nhờ thế mở ra những nhãn quan mới về cuộc sống, thì việc hiện thực những tư duy mới mẻ đó được gọi là một hành động «cách mạng», mà điểm đầu tiên phải quy chiếu thuộc về lãnh vực lý trí và tự do của «Homo faber» và của «Homo scientiae». Nhưng một lý trí chủ quan, tức một lý trí chỉ dựa trên chính mình, và một sự tự do không tuân theo bất cứ một quy luật hay điều lệ nào – những điều kiện nền tảng tất yếu của một xã hội - thì cả hai đều không hành động đúng chức năng và phạm vi của mình.
Theo thánh Toma Aquinô thì con người là một lữ hành (viator) luôn bước đi trên một con đường kép - một bên là con đường của sự suy luận phù hợp với lý trí và một bên khác là con đường của đức tin – và con đường kép đó cùng nhắm dẫn tới một mục đích duy nhất. Nhưng con đường của con người là con đường sám hối quay trở về với nguồn chân lý, cứu cánh của mình. Vì thế, nếu con người đánh mất sự ý thức này, con người sẽ đánh mất đi chính nội tâm của mình và sẽ rơi vào trong vực sâu của sự hiện hữu của mình. Vì cùng một con đường, nhưng nó có thể dẫn đưa chúng ta đi lên hay cũng có thể dẫn chúng ta vào vực thẳm hư vô. Chính triết gia thời danh Hy-lạp Heraklit Von Ephesos (540-480: trước Công nguyên), cũng đã ý thức được như thế. Vâng, cùng một con đường có thể dẫn con người dừng chân lại trong cái đã đạt được hay trong cái đang nằm trong tư duy. Con người bị đẩy vào thế bị động, bị đặt vào tình trạng căng thẳng ngay từ giây phút chào đời.
Biến động năm 1968 ở Tây Phương, một bước ngoặt văn hóa bất khả lùi lại
Trong khoảng thời gian từ năm 1968 đến năm 2008 hôm nay, bốn mươi năm đã trôi qua kể từ khi một bước ngoặt về văn hóa xảy ra, một bước ngoặt đã đưa tới một sự thay đổi bất khả lùi lại. Bước ngoặt đó đã trình bày cho tầng lớp thanh niên cũng như người có tuổi một tư tưởng vĩ đại về một cuộc cách mạng đầy ảo tưởng. Dĩ nhiên, không theo nghĩa một cuộc xung đột hay một cuộc nổi dậy bằng vũ lực của các tầng lớp đại chúng - như cuộc «cách mạng văn hóa» đẫm máu và phản văn hoá của nhà độc tài Mao Trạch Đông ở Trung Hoa - nhưng theo nghĩa văn hóa thực sự, nghĩa là truyền bá cho con người một hình thức tư duy và một kiểu sống hoàn toàn mới. Nhưng, phải chăng con đường dẫn đi lên và đi xuống cũng chỉ là một con đường? Thế hệ «cách mạng» - có người cũng gọi la thế hệ nổi loạn - năm 1968 đã trở nên già nua, và chính tư tưởng «cách mạng» do chính họ sử dụng - hay điều khiển họ - vào những năm xa xôi ấy cũng đã cũ kỹ và các hiệu năng của nó cũng đã dần dà phôi phai mờ nhạt đi. Thế giới ngày nay đã đưa ra một con đường theo kiểu cách khác.
Vâng, thời đại toàn cầu hóa là định nghĩa và là sắc thái mới của thế hệ hôm nay. Trước hết người ta cho rằng hiện tượng toàn cầu hóa quả thực là một hình thức và một không gian hoàn toàn mới mẻ cho việc trao đổi và điều động chất sám của nhân loại. Và hiện tượng toàn cầu hóa cũng đã mau mắn cho thấy rằng, điều được «toàn cầu hóa» nhanh nhất chính là tình trạng luân lý đạo đức của nhân loại, một điều mà có lẽ triết gia Kant sẽ gọi là: Con người đã tìm được chỗ định cư trong thế giới của mình.
Và sự định cư mới mẻ này của con người vượt lên trên các nền văn hóa, các tôn giáo và các ý thức hệ. Vâng, một ý thức hệ duy nhất có thể tồn tại là không ý thức hệ gì cả. Đối với đại đa số thế hệ hôm nay, các lý tưởng trừu tượng, như các ý thức hệ, không còn sức hấp dẫn nữa; trái lại, điều lôi cuốn họ và khiến họ theo đuổi, là sự hạnh phúc thực tiễn của cuộc sống cụ thể. Cả tư tưởng toàn cầu hóa cũng đe dọa trở thành một tư duy chi tiết, bị chi phối bởi chủ nghĩa tiêu thụ và chủ nghĩa vật chất, mà trong đó «trật tự mới của thế giới» chỉ do một số ít người nắm giữ để mưu ích lợi cho cá nhân mình. Trong một khuynh hướng xã hội nặc mùi vật chất như thế, sự đòi hỏi khả năng, tình trạng vô mục đích và vô định hướng, vấn đề tôn giáo, v.v… đều được kê khai như những món hàng trong siêu thị. Đồng thời tiềm năng bạo lực của con người – «con vật» duy nhất có sở thích tiềm ẩn về chém giết – gia tăng nhanh và tìm gặp được đặc biệt nơi tầng lớp người trẻ một chỗ thuận lợi để xuất hiện. Tất cả đều là hậu quả của tình trạng dửng dưng, bất cần của con người, và đồng thời cũng là một sự bộc lộ não trạng ý thức hệ hay tôn giáo cực đoan, như chúng ta chứng kiến hiện nay nơi một số tín đồ Hồi giáo.
Dĩ nhiên, một số câu hỏi được đặt ra cho các Kitô hữu là: Cái «bản đồ» đời sống Kitô hữu và đời sống Giáo Hội của họ ra sao? Đời sống Giáo Hội đã bị và đang bị tổn hại như thế nào? Qua con đường nào Giáo Hội có thể hồi tưởng lại được, nghĩa là quay trở về trong chính cung lòng của mình, để tìm ra được con đường chân lý? – Đàng khác, chính chân lý là con đường!
Ngay khi bắt đầu thiên niên kỷ mới, Đức Gioan Phaolô II - trong Tông Thư kết thúc Năm Thánh 2000 «Novo millenio ineunte» - đã vạch ra một con đường và hoạch định biên giới của nó: «Duc in altum» - (Hãy chèo thuyền ra khơi). Cùng với Chúa Cứu Thế, Đức Thánh Cha đã mời gọi nhân loại hãy can đảm mạo hiểm tiến bước vào một giai đoạn mới của thế giới và của con người. Hãy chèo thuyền ra ngoài biển cả của những cái mới lạ vô danh và hãy thả lưới: «Lời nói đó (của Đức Kitô) ngày nay lại vang vọng trong tai chúng ta và mời gọi chúng ta: Hãy đầy lòng biết ơn tưởng nhớ tới quá khứ, nhiệt tâm sống giây phút hiện tại và đầy tin tường hướng về tương lai, vì chỉ có một Đức Giêsu Kitô: hôm qua, hôm nay và mãi mãi muôn đời!»
Dĩ nhiên, Đức Gioan Phaolô II không giới thiệu cho nhân loại một thứ lạc quan rẻ tiền và có tính cách mị dân. Nhưng Đức Thánh Cha vạch ra một đường hướng chỉ đạo để toàn thể Kitô giáo bước theo, hầu không bị rơi vào trong «vương quốc thế gian», một vương quốc phản loạn chống lại Thiên Chúa.
«Omnia et in omnibus Christus» - Đức Kitô là tất cả và trong tất cả mọi người. Con tim của lịch sử nhân loại được tỏ hiện trên dung nhan của Con Thiên Chúa làm người. Nói cách khác, cái nhìn của Đức Kitô luôn đầy cảm thông và đầy yêu thương. Trong ánh mắt của Người, nhân loại có thể tìm gặp được một câu giải đáp cho những chờ đợi và khắc khoải của mình. Nói cách khác, Đức Kitô là câu giải đáp thoả đáng duy nhất, mà nhân loại cầu mong. Đúng vậy, không phải sự ảo tưởng hay khí cụ của bất cứ ý thức hệ nào khác, nhưng là chính đức Kitô, chân lý mặc xác phàm, sẽ chỉ cho nhân loại con đường chân lý của Người. «Duc in altum» - Hãy chèo thuyền ra khơi và hãy sống trong sự tìm kiếm thánh nhan Thiên Chúa.
Tất cả những sào huyện cũ của các thứ ý thức hệ - tinh thần quốc gia quá khích (Đức quốc xã), chủ nghĩa cộng sản duy vật vô thần (Liên Sô), khuynh hướng thần học vô thần (phong trào 1968), v.v… đều đã đã bị giải thể và phá tán. Những chế độ chính trị tàn bạo, từng tìm cách loại bỏ tính chất cá biệt để mong đạt tới niềm hy vọng nội tại, cũng đã lùi vào quá khứ. Thay thế vào chỗ của tất cả ý thức hệ đó là một suy tư có cơ cấu về sự tiến bộ, trong đó sự mới mẻ có thể tìm được đất đứng, hầu có thể trở thành một phần của văn hóa tiến bộ. Vào thập niên sáu mươi, quyền bính đã bị đặt thành vấn đề, vì người ta quan niệm rằng, quyền bính không phải là một điều chỉ thuộc về những giai cấp nắm giữ quyền hành hay những định chế truyền thống trong xã hội như gia đình, nhưng là những hình thức giao lưu, các hình thái hay dạng thức và những xung động mang tính cách sư phạm. Qua đó, người ta thấy rằng con nguời ngày nay có khuynh hướng tương đối hóa tất cả mọi quan hệ và mọi liên lạc trong xã hội.
Tuy nhiên, chủ nghĩa tương đối hóa này không phải là hiệu quả duy nhất của một thái độ chủ quan. Nhưng lý do của thái độ chủ quan hệ ở việc đặt tính cách khách quan lệ thuộc vào lãnh vực trực thuộc dụng cụ thuần túy. Việc loại bỏ nền văn hóa tinh thần một cách chủ quan sẽ dẫn tới sự độc đoán của chủ nghĩa duy vật, một chủ nghĩa thường chứa đựng một sự mâu thuẩn nội tại. Một đàng, sự thống trị độc đoán mới này sẽ chèn ép và tìm cách xóa bỏ dần nền văn hóa Tây Phương cũng như gốc rễ Kitô giáo của nó, và một đàng khác, nó gây cho người ta có một ấn tượng là chính nền văn hóa đó tự đào thải chính mình, như Đức Bênêđíctô XVI thường nói. Nhân danh một khoa học đã rời bỏ phạm vi chuyên môn của mình và đã trở thành «một cái gì khác», thì nền tảng của chính thế giới Tây Phương đã bị đưa bán đứng và bị tấn cống một cách dữ dội. Một vũ trụ quan trọng về luân lý và đạo đức hoàn toàn phù hợp với luật lệ của đạo lý tự nhiên, sẽ là một cản trở cơ bản chống lại chủ nghĩa duy vật nặc mùi ý thức hệ và khoa học nắm giữ quyền chi phối toàn diện. Kitô giáo nói chung và Giáo Hội Công giáo nói riêng vốn nắm giữ trong mình luật luân lý tự nhiên, điều kiện để hiện thực bản sắc hiện hữu của mình, vì thế Giáo Hội đã trở thành kẻ thù số một của chủ nghĩa duy vật.
Đức Bênêđíctô XVI đã chỉ cho nhân loại biết rằng, họ không được phép để cho mình bị lôi cuốn bởi một «kiểu sống hời hợt» do khoa học và kỹ thuật đưa ra. Bởi vì một kiểu sống như thế không chứa đựng trong mình sự tự do thật sự, nhưng sẽ đưa dẫn tới vực thẳm của sự nô lệ, trong đó con người sẽ trở thành hỏa ngục cho nhau. Đức Thánh Cha quả quyết rằng: «Sự tiến bộ tích luỹ chỉ xảy ra trong lãnh vực vật chất mà thôi». Còn «trong lãnh vực nhận thức đạo đức và quyết định luân lý, người ta không còn có khả năng tích luỹ tương tự như thế, vì lý do đơn giản là sự tự do của con người luôn luôn mới mẻ và quyết định của sự tự do cũng phải luôn luôn mới mẻ» (TĐ. Spe Salvi, số 24).
Sai lầm của Giáo Hội trong vòng những thập niên vừa qua: Giáo Hội không nhận ra được những khúc mắc của não trạng hiện đại
Đối với Đức Bênêđíctô XVI, tự do không phải là một sở hữu vật chỉ cần chiếm giữ được một lần là đủ, nhưng nó luôn luôn đòi hỏi một sự chấp thuận mới của ý chí trong việc thực thi sự thiện hảo. Bởi vì, nếu sự tự do bị áp đặt, thì sự tự do chỉ được hiện thực trong một khuôn khổ đã được dựng sẵn, và như thế sự tự do sẽ mất đi ý nghĩa của nó và không còn là tự do nữa. Đức Bênêđíctô XVI đã thức tỉnh tất cả các thế hệ hãy khẩn cấp quan tâm đế sự cần thiết, là phải đạt được sự tự do. Con người không được hoàn toàn khoán trắng cho các cấu trúc, bởi vì «Tình trạng tốt đẹp của xã hội loài người và tình trạng đạo đức của thế giới sẽ không bao giờ được bảo đảm chỉ nhờ vào các cấu trúc mà thôi, dù chúng có tốt đến đâu đi nữa» (Spe Salvi 24). Và «con người không thể đơn giản được cứu rỗi từ bên ngoài» (Spe Salvi 25). Một khoa học đúng đắn «có thể đóng góp nhiều vào việc xây dựng thế giới và con người có nhân bản hơn. Nhưng khoa học cũng có thể hủy diệt con người và thế giới, trừ khi nó được hướng dẫn bởi những sức mạnh bên ngoài nó. Ngược lại, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng Kitô giáo trong thời tân tiến, khi trực diện với những thành công của khoa học trong việc xây dựng thế giới một cách tiến bộ hơn, trên một quy mô rộng lớn, đã hạn chế sự chú ý đến các cá nhân và ơn cứu độ của họ. Khi làm như thế, Kitô giáo đã giới hạn chiều kích niềm hy vọng của mình và không nhận ra đầy đủ sự cao cả trong sứ mệnh của mình – ngay cả khi Kitô giáo tiếp tục đạt được những thành tựu to lớn trong việc đào tạo và chăm sóc cho những người yếu thế và đau khổ.» (Spe Salvi 25).
Con đường của Kitô giáo và của Giáo Hội trong tương lai tùy thuộc vào việc đề xuất ra được «chiều kích hy vọng». Nghĩa là: Sự tự phụ hay tự mãn trong phương diện Giáo Hội và thần học là một thái độ đi ngược lại sứ mệnh truyền giáo mà Đức Kitô đã giao phó, là mang đến cho nhân loại niềm hy vọng. Đức Thánh Cha kêu mời toàn thể Kitô giáo hãy rao truyền chân lý của Ngôi Lời mặc xác phàm với một sự xác tín sâu xa, vì chân lý của ơn cao cả đó không chỉ mang đến cho nội tâm con người sự phong phú, nhưng nó còn phong phú hoá cả toàn thể nhân loại nữa. Chính Đức Kitô đã được Chúa Cha trao phó cho sứ mệnh mang sứ điệp đó vào trong thế gian, khi Người nhập thế và mặc lấy xác phàm.
Trong những thập niên vừa qua, Giáo Hội đã phạm những sai lầm. Đó là Giáo Hội đã không nhận chân được những khúc mắc của não trạng tân thời. Các «vũ khí» của Giáo Hội đã trở nên vô hiệu lực. Nền thần học của giáo Hội hoặc trở nên quá trừu tượng sâu kính, hoặc có tính cách duy trí – xa vời với chân lý và sứ mệnh của Giáo Hội. Nếu Giáo Hội không còn nhận chân ra được «đức tin và lý trí» như là chủ đề chính yếu của mình, nếu Giáo Hội bỏ rơi lòng đạo đức của những người đơn sơ bé nhỏ, nếu Giáo Hội chỉ rao giảng, chứ không sống điều mình rao giảng, nếu Giáo Hội không bắt đầu lại một cách mới mẻ trong sứ mệnh phụng sự Thiên Chúa, trong chương trình Phụng Vụ, thì Giáo Hội không còn gì khác để có thể tự phân biệt được với những sinh hoạt thế gian nữa. Giáo Hội sẽ mất hết khí giới của mình và như thế Giáo Hội sẽ mất dần cả đất đứng nữa. Cuộc sống bị tục hóa một cách nhanh chóng khủng khiết và làn sóng bỏ đạo ồ ạt hiện nay tại lục địa Âu Châu Kitô giáo là lời cảnh cáo nghiêm trọng. Trong bức thông điệp Spe Salvi, Đức Bênêđíctô XVI đã dứt khoát đòi hỏi thế giới Kitô giáo nói chung và Giáo Hội nói riêng cần phải tự phê bình chính mình. Điều đó có nghĩa là trước hết phải biết mở rộng con mắt để nhìn thấy được rằng, sau bao nhiêu năm sống trên sự hời hợt nông cạn, trên sự giả tạo và trên thái độ bất quan tâm trước sự hy sinh mất mát của các tầng lớp tín hữu, đức tin cần phải được canh tân và sưởi ấm lại một cách mới mẻ và đầy sức sống. Đời sống tâm linh có những đòi hỏi nhất định của nó và nêu lên cho người tín hữu một trách nhiệm rõ ràng, đó là phải luôn ý thức đầy đủ về niềm hy vọng hằng tác động trong chúng ta. Nhưng phải chăng vẫn còn sống động trong chúng ta một niềm hy vọng nào đó? Hay tất cả mọi nhận thức về niềm hy vọng đã hoàn toàn bị chôn vùi sâu dưới đống gạch đổ nát của vô ý thức?
Đức Bênêđíctô muốn cho các Kitô hữu nhận ra được những đòi hỏi cao cả, xuất phát từ việc:
• Con Thiên Chúa từ trong cung lòng đầy ân sủng của Chúa Cha đã được sinh ra cho con người;
• Người là Đấng đã làm cho chân lý trở nên hữu hình trên chính con người của Người;
• Người đã chịu chết cho tất cả những ai đón nhận Người, hầu mang lại hạnh phúc cho toàn thể nhân loại.
Để không có gì trong vũ trụ này có thể dửng dưng đối với thành quả này được, Đức Thánh Cha đã không ngừng khơi dậy tâm thức tôn giáo nơi các Kitô hữu trong tập niên đầu tiên của thiên niên kỷ mới này. Kitô giáo cần phải có khả năng thuyết phục được thế giới biết chấp nhận chân lý cơ bản này, đó là: Đức Kitô là câu giải đáp duy nhất và là cứu cánh cho mọi tìm kiếm của con người. Sự khao khát tình yêu thương, sự cứu rỗi và sự sung mãn, tư tưởng về vĩnh cửu, sự tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống, v.v… Đó là tất cả những điểu Đức Thánh Cha muốn trao ban tận tay con người như hành trang trên bước đường đời của họ. Mỗi người Kitô hữu đã được mời gọi đi khám phá ra dung nhan Đức Kitô.
Thiên Chúa nhập thể là câu giải đáp cho tất cả mọi thắc mắc, là nguyên ủy của sự tự do và là nền tảng của niềm hy vọng
Con người cần phải hành động ra sao? «Cum Petro et sub Petro» - với Phêrô và dưới Phêrô, tất cả mọi Kitô hữu phải đặt Thiên Chúa lên địa vị hàng đầu trong tất cả mọi tương quan của cuộc sống. Giáo Hội cần tới các cơ cấu, nhưng các cơ cấu không được trở thành mục đích tuyệt đối. Mầu nhiệm phải là tâm điểm. Con đường của người Kitô hữu chạy qua một «sự khai tâm», giúp anh hòa hợp với lịch sử trong thế giới riêng tư của anh. Người Kitô hữu không đơn giản mô phỏng theo các yếu tố của vũ trụ và «Kitô hóa» chúng một cách áp đặt. Anh không đi nhà thờ, không sử dụng «musica sacra» như phương tiện để tìm lại chính mình. Anh cũng không quỳ trước Phép Thánh Thể, «như thể» có Chúa ngự trong đó.
Không! Người Kitô hữu thực sự tìm lại được chính mình khi anh đến với Thiên Chúa. Thiên Chúa không phải là phương tiện cho anh tìm lại được chính mình, nhưng là mục đích sự tìm kiếm của anh. Vì anh hiện hữu trong Thiên Chúa. Do đó, tìm gặp được Thiên Chúa là tìm gặp được chính mình. Con đường phụng vụ không phải là con đường của một cuộc tổ chức gặp mặt chung trong một chỗ công cộng, nhưng là nơi của sự định hướng chung cùng tiến về Đấng Duy Nhất. Trên con đường phụng vụ, vị Linh mục hướng dẫn cộng đồng Dân Chúa cùng hướng nhìn và tiến về cùng Thiên Chúa, Đấng hằng thôi thúc lôi kéo họ qua tác động của Thánh Linh. «Thân mình mầu nhiệm» của Đức Kitô, tức Giáo Hội, qui tụ tất cả mọi Kitô hữu vào trong một cộng đồng của ân sủng Thiên Chúa. Cuộc sống này kêu mời tất cả các Kitô hữu hãy nổ lực xây dựng thế giới.
Trong Tông thư « Novo Millenio Ineunte» Đức Gioan Phaolô II đã khẳng định rằng một chủ thuyết duy lý của nền văn hóa tân thời đã tạo ra cho đức tin vào Thiên tính Đức Kitô những thách đố nặng nề, ngược lại với trong quá khứ, người ta đã có khuynh hướng giảm thiểu hay chối bỏ nhân tính cụ thể của Đức Kitô lịch sử. Bởi vậy, cùng với thánh Phaolô, Đức Gioan Phaolô II đã minh xác rằng trọng tâm đức tin của Giáo Hội là tin nhận Ngôi Lời đã thực sự mặc lấy xác phàm và «đã chấp nhận tất cả mọi chiều kích nhân loại, ngoại trừ tội lỗi.» Đức Giêsu là con người mới, Đấng «kêu mời nhân loại đã được cứu rỗi tham dự vào cuộc sống thần linh của Người». Do đó, từ nay các nguyên tắc cơ bản của khoa nhân chủng học chân chính phải được đặt nền móng trên mầu nhiệm nhập thể, vì chính Thiên Chúa tác động trong đó, và qua Đức Kitô, Ngôi Lời nhập thể, con người đã được cứu rỗi, được dự phần vào cuộc sống thần linh của Ba Ngôi Thiên Chúa. Dựa theo chiều kích cứu độ đó, các Thánh Phụ đã quả quyết rằng: Chỉ vì Con Thiên Chúa đã thực sự làm người, nên trong Người và qua Người, con người mới có thể thực sự trở nên con Thiên Chúa (xem số 23).
Nói tóm lại, chỉ một mình Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, là câu giải đáp duy nhất cho tất cả mọi vấn nạn, cho mọi khao khát và mọi tình cảm của cuộc sống con người, là nguyên ủy của sự tự do và nền tảng của niềm hy vọng. Mọi chân lý của nhân loại đều phải đặt cơ sở trên Logos Thiên Chúa, trên Vị Thẩm Phán chí công độc nhất, vì Người là Chân Lý tối hậu của mọi chân lý.
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Hương Trầm Đầu Năm
Lê Trị
00:29 16/02/2008
HƯƠNG TRẦM ĐẦU NĂM
Ảnh của Lê Trị
![]() |
Thanh bình, hạnh phúc buổi xuân sang
Niềm mơ đơn giản thật nhẹ nhàng
Năm chục năm rồi mơ không trọn
Mấy thế hệ qua mộng bẽ bang…
(Trích thơ Bà Mẹ Thái Hà của Bs Vũ Linh Huy)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền