Ngày 19-12-2014
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Video Nhạc Giáng Sinh: White Christmas – Nhạc: Irvin Berlin – Trình bày: Cẩm Yến
VietCatholic Network
04:30 19/12/2014
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
 
Lễ vọng Giáng Sinh: Con Thiên Chúa làm người có một gia phả
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
10:32 19/12/2014
Con Thiên Chúa làm người có một gia phả

Thánh Lễ Vọng Giáng Sinh

(Mt 1, 1-25)

Phụng vụ Thánh Lễ Vọng Giáng Sinh dìu chúng ta về với gia phả của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, và gẫm suy sự giáng sinh của Con Một Chúa.

Gia phả của Đức Giêsu Kitô

Đã làm người là có cố có ông, có cha có mẹ có ông có bà, tức là có một gia phả. Đức Giêsu dù là Thiên Chúa, nhưng làm người, nên cũng không nằm ngoài qui luật tự nhiên ấy. Gia phả của Đức Giêsu Kitô được Thánh sử Matthêu viết thật là dài cả thảy 42 đời, không phải một cách hết sức chính xác và đầy đủ theo nghĩa lịch sử, nhưng mang nặng ý nghĩa thần học. Gia phả này nhắc nhớ chúng ta rằng, sau khi tổ tông loài người phạm tội trong vườn địa đàng, Thiên Chúa đã đi tìm Ađam và Evà và đồng hành với con người. Thiên Chúa đã gọi Abraham người đầu tiên trong gia phả, thứ đến là các tổ phụ khác. Thiên Chúa đã muốn làm lịch sử với chúng ta, một lịch sử đi từ thánh thiện đến tội lỗi, như trong gia phả chúng ta thấy có những thánh nhân vĩ đại nhưng cũng có những tội nhân cao độ. Đó chính là sự kiên nhẫn, khiêm tốn của Thiên Chúa và tình thương của Ngài đối với chúng ta.

Theo thánh Mátthêu, Đức Giêsu xuất thân từ dòng dõi Abraham, và cuộc đời Người gắn kết với dân tộc Israen, một dân được tuyển chọn trong tình thương. Đức Giêsu cũng là Con của vua Đavít, nên Người có cơ sở để là Đấng Kitô như lời hứa.

Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa làm người, sinh ra trong một gia đình, sống trong xã hội, nên Ngài chịu chi phối bởi xã hội trong dòng lịch sử một dân tộc với tất cả những thăng trầm và biến động của nó. Là người cuối của gia phả, nhưng lại là nhân vật trung tâm (x. Mt 1,16-17). Tất cả lịch sử của dân tộc Israen cũng là lịch sử cứu độ. Dòng lịch sử cứu độ này đã lên đến tuyệt đỉnh nơi Đức Giêsu Kitô. Nơi Người, Thiên Chúa đã đưa lịch sử nhân loại đến chỗ thành tựu.

Như chúng ta đã nói ở trên, Con Thiên Chúa đi vào một lịch sử đi từ thánh thiện đến tội lỗi, một gia phả khác thường đối với Do thái giáo. Bởi lẽ, trong gia phả Đức Giêsu có tên một số phụ nữ, đó là chuyện lạ, vì người Do Thái thường chỉ để tên người cha. Trừ Đức Maria ra, còn bốn phụ nữ kia đều có gốc dân ngoại. Tama và Rakháp gốc Canaan, Rút gốc Môáp, vợ Urigia người Híttít. Mỗi bà lại có hoàn cảnh khác thường không ai giống ai. Tama giả làm điếm để ngủ với cha chồng là Giuđa, hầu sinh con cho nhà chồng (St 38). Rakháp là một cô điếm ở Giêricô, đã giúp Giosuê chiếm Canaan (Gs 2). Bétsabê, vợ của Urigia, đã ngoại tình và lấy vua Đavít (x. 2Sm 11-12). Rút đã lấy ông Bôát là người bà con gần, để nối dõi cho chồng (x. R 1-4). Đức Giêsu đã là con cháu của các phụ nữ khác thường này, nên cũng mang trong mình chút dòng máu của dân ngoại nếu tính theo gia phả, dẫn đến cuộc sinh hạ của Đức Kitô cũng khác thường.

Sự giáng sinh của Con Một Chúa

Thiên Chúa muốn cứu độ con người bằng cách sai Con Một Chúa xuống thế gian, nhập thể làm người. Cách làm người của Con Thiên Chúa vừa bình thường lại vừa tuyệt đối khác thường. Bình thường vì Người được sinh ra bởi một người nữ (x. Gl 4, 4). Khác thường vì Người không được sinh ra bởi người nam (cha ruột), nhưng do quyền năng Chúa Thánh Thần (x. Mt 1, 18. 20). Mátthêu diễn tả một cách tinh tế như sau: “Giacóp sinh Giuse, chồng của bà Maria, từ bà Đức Giêsu được sinh ra, cũng gọi là Đức Kitô” (c. 16). Có thể nói, Đức Giêsu có dược “nhập khẩu” vào dòng dõi vua Đavít hay không đều tùy thuộc vào lời đáp trả của thánh nhân. Nên Thánh Mátthêu đã làm nổi bật dung mạo vị cha nuôi của Chúa Giêsu, vừa nhấn mạnh rằng, nhờ qua thánh nhân, Con Trẻ được đưa vào trong dòng dõi vua Ðavít một cách hợp pháp, và như thế thực hiện những Lời Kinh Thánh, trong đó Ðấng Thiên Sai được các tiên tri loan báo như là “Con của Vua Ðavid ”. Như thế Con Thiên Chúa đã có một người mẹ để trọn vẹn là người. Ngài có cha nuôi là thánh Giuse để được thuộc về dòng Đavít với một gia phả. Có một gia đình cần thiết để sống và lớn lên.

Trong giờ vọng lễ Mừng Chúa giáng sinh đêm nay, chúng ta hướng nhìn về Thánh Giuse, vị hôn phu của Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria, cha nuôi Đức Giêsu, mẫu gương của người “công chính” (Mt 1,19). Vai trò của Thánh Giuse với nhân đức trổi vượt không thể nào bị rút gọn về khía cạnh luật pháp mà thôi. Ngài được Thiên Chúa tín nhiệm trao ban quyền làm “Người gìn giữ Ðấng cứu thế”, trong gia đoạn đầu của công trình cứu chuộc, khi hoà hợp hoàn toàn với vị hôn thê của mình, tiếp rước Con Thiên Chúa làm người và canh chừng cho sự tăng trưởng nhân bản của Con Thiên Chúa. Vì thế, thật xứng hợp biết bao hướng về ngài, cầu xin ngài trợ giúp chúng ta sống trọn vẹn mầu nhiệm Ðức Tin cao cả này.

Noi gương ngài, chúng ta mở rộng lòng mình ra, chuẩn bị nội tâm để đón nhận và gìn giữ Chúa Giêsu trong đời sống chúng ta. Uớc chi Chúa có thể gặp thấy trong chúng ta lòng quảng đại sẵn sàng đón Chúa đến, như đã xảy ra như vậy tại Belem trong Ðêm Cực Thánh Chúa Sinh Ra. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
 
Chúng ta đi tìm con Chúa ra đời
Lm. Đan Vinh
10:35 19/12/2014
HIỆP SỐNG TIN MỪNG: LỄ GIÁNG SINH ABC

RẠNG ĐÔNG (Lc 2,15-20)

CHÚNG TA ĐI TÌM CON CHÚA RA ĐỜI

I. HỌC LỜI CHÚA

1) TIN MỪNG: (Lc 2,15-20)

Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau: “Nào chúng ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết” (c. 15). Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ (c. 16). Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này (c. 17). Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên (c. 18). Còn bà Ma-ri-a thì hàng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng (c. 19). Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ (c. 20).

2) Ý CHÍNH:

Bài Tin Mừng lễ Rạng Đông nối tiếp Tin Mừng lễ Nửa Đêm mừng Giáng Sinh. Nội dung ghi lại thái độ của các mục đồng sau khi được sứ thần hiện đến loan báo tin vui về sự ra đời của Đấng Cứu Thế. Họ đã tích cực đáp trả bằng cách vội vã rủ nhau lên đường đi sang thành Bê-lem, để coi xem sự việc xảy ra mà Chúa mới cho biết. Theo lời sứ thần hướng dẫn, họ đã sớm tìm thấy Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ và hai ông bà Giu-se Ma-ri-a đứng bên. Rồi họ thuật lại mọi sự từ khi được sứ thần loan báo tới việc tìm thấy Hài Nhi, đúng với những điều họ đã nghe biết. Cuối cùng họ vui vẻ về nhà, vừa đi vừa ca tụng tôn vinh Thiên Chúa, đã ban Đấng Cứu Thế xuống cho loài người.

II. SỐNG LỜI CHÚA

1) LỜI CHÚA: “Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hai Nhi này” (Lc 2,16-17).

2) CÂU CHUYỆN: GIÁNG SINH: MẦU NHIỆM TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA

Vào thời trung cổ, ở nước Nga thời trung cổ, có một hoàng tử tên là A-lếch-xích (Alexis) hoàng tử có một tình thương rất đặc biệt dành cho những người nghèo khổ. Hầu như ngày nào hoàng tử cũng dành ra buổi chiều để đi đến các xóm nghèo và ân cần thăm hỏi giúp đỡ những ai gặp cảnh khó khăn cơ cực. Tuy vậy, hoàng tử rất ngạc nhiên khi thấy dân chúng tỏ vẻ thờ ơ khi thấy chàng xuất hiện. Một hôm hoàng tử đến gặp một vị ẩn sĩ nổi tiếng khôn ngoan để xin chỉ giáo phương cách chinh phục tình cảm của dân chúng.

Một thời gian khá lâu sau đó người ta không thấy hoàng tử xuất hiện đi thăm người nghèo. Nhưng rồi một ngày kia, dân chúng lại thấy một người tuổi trung niên đến thăm khu xóm nghèo. Khác với hoàng tử trước kia ăn mặc sang trọng, còn người này mặc áo quần màu trắng đơn sơ giống như một thầy thuốc. Ông ta thuê một căn nhà bình thường để ở. Rồi hàng ngày từ sáng sớm đã ra khỏi nhà, tay xách một chiếc cặp đựng các dụng cụ y tế và thuốc men. Ông ta đến thăm các gia đình có người đau nặng để khám bệnh và phát thuốc miễn phí chữa bệnh. Ông thầy thuốc này có tài chữa bệnh, nên rất nhiều bệnh nhân bị những chứng nan y nhưng chỉ được ông chữa vài lần là khỏi hẳn. Không bao lâu, ông ta đã chinh phục được cảm tình quí mến của mọi người lớn trẻ nhỏ trong vùng. Đây là điều mà trước đó hoàng tử A-lếch-xít không sao đạt được. Ông thầy thuốc kia đã dần dần được nhiều người tín nhiệm. Mỗi khi thấy ông là mọi người bu lại chung quanh nhờ cậy. Hôm thì ông dàn hòa được hai người đang tranh cãi ẩu đả. Hôm khác ông lại hòa giải được đôi vợ chồng giận ghét muốn lìa bỏ nhau. Ông cũng hòa mình chơi chung và khuyên dạy các trẻ em ngỗ nghịch dần dần trở nên ngoan ngoãn dễ dạy và học hành tấn tới.

Thật ra người thầy thuốc đó không ai khác hơn là chính hoàng tử A-lếch-xít. Sau khi gặp vị ẩn sĩ, và nghe lời khuyên của vị này, hoàng tử dành thời giờ đi học nơi một thầy thuốc lành nghề khoảng mười năm. Sau khi thành tài, hoàng tử đã rời bỏ cung điện, đến sống hòa mình giữa xóm lao động nghèo khó, trở thành một người như họ và yêu thương phục vụ họ tận tình. Chính tình thương kèm theo sự khiêm hạ và hy sinh của hoàng tử, đã đem lại kết quả tốt đẹp: Hoàng tử đã chinh phục được tình cảm yêu mến kính trọng của thần dân, đặc biệt là những người nghèo khổ bất hạnh.

3) SUY NIỆM:

- Hoàng tử A-lếch-xít trong câu chuyện chính là hình ảnh của Đấng Cứu Thế là Chúa Giê-su. Người đã yêu thương nhân loại chúng ta và đã từ trời cao xuống thế làm một người phàm. Người được sinh ra trong thân phận nghèo khó, sống một cuộc đời lao động vất vả tại Na-da-rét như bao dân làng. Người đã trở thành EM-MA-NU-EN nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Quả thật: “Con Thiên Chúa đã trở nên loài người, để làm cho con loài người trở nên Con Thiên Chúa”.

- Trong Mùa Giáng Sinh này, chúng ta thường thấy nhiều hang đá tại nhà thờ hay tư gia. Trong hang có Hài Nhi Giê-su đang nằm trong máng cỏ, bên cạnh là Mẹ Ma-ri-a và thánh cả Giu-se quì thờ lạy. Cũng có mấy con bò và lừa đang quì gần bên thở hơi ấm cho Hài Nhi mới sinh. Việc dựng các hang đá như trên đã có từ thế kỷ thế 13. Vào năm 1223, thánh Phan-xi-cô khó khăn, lúc đó đang là bề trên một tu viện bên Ý. Ngài cho dọn một hang đá trong vườn cây ở gần Gờ-réc-xi-ô. Bên trong hang đá, ngài đặt tượng Hài Nhi Giê-su nằm trên máng cỏ, bên cạnh là một con bò và một con lừa. Vào đêm khuya hôm lễ Giáng Sinh, thánh Phan-xi-cô cùng các tu sĩ và dân chúng lân cận kéo nhau đến đứng chung quanh hang đá. Bên cạnh hang có đặt một bàn thờ, và thánh lễ đã được cử hành trang nghiêm. Từ đó, việc trưng bày hang đá tại nhà thờ và tư gia càng ngày càng phổ biến trở thành tập tục chung của cả thế giới.

- Mầu Nhiệm Giáng Sinh là cách Thiên Chúa diễn tả tình thương lớn lao nhất đối với nhân loại. Thiên Chúa đã sai Con Một xuống thế làm người, trở nên giống như chúng ta mọi đàng, ngoại trừ không có tội. Người đã yêu thương chúng ta đến cùng, và biểu lộ tình yêu bằng việc rao giảng Tin Mừng Nước Trời, làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế, lựa chọn và huấn luyện các tông đồ, lập các Bí Tích và cuối cùng sẵn lòng chịu chết nhục nhã trên cây thập giá để đền tội thay cho chúng ta, và sống lại để ban lại sự sống cho chúng ta. Người đã mở ra con đường lên trời cho chúng ta. Đó là con đường yêu thương, quên mình và phục vụ. Đó là chấp nhận “Qua đau khổ tử nạn vào vinh quang phục sinh”. Người mời gọi chúng ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hàng ngày mà đi theo. Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ được sống lại với Người, và sau này sẽ cùng được hưởng hạnh phúc vĩnh viễn trên thiên đàng với Người.

4) THẢO LUẬN: Sau khi được sứ thần loan báo tin vui, các mục đồng đã vội vã lên đường đi Bê-lem để tìm Hài Nhi Cứu Thế. Sau khi gặp Người, họ đã thuật lại những gì mắt thấy tai nghe. Còn chúng ta, trong những ngày này chúng ta sẽ làm gì để loan báo Tin Mừng Chúa Giáng Sinh cho các bạn bè và những người chưa nhận biết Chúa?

5) LỜI NGUYỆN

- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúa mang ơn cứu độ xuống cho trần gian. Nhưng loài người chúng con chỉ đón nhận được ơn cứu độ của Chúa nếu chúng con biết đi tìm kiếm Chúa. Chúa luôn phát ra tín hiệu để mời gọi và không ngừng chờ mong chúng con đáp trả. Xin cho chúng con biết noi gương các mục đồng: hối hả rủ nhau đi sang Bê-lem để tìm Hài Nhi Cứu Thế mới sinh mà họ mới được sứ thần báo tin.

- LẠY CHÚA. xin cho chúng con trở thành những ông già No-en đầy lòng nhân ái, luôn sẵn sàng cho đi một nụ cười thân ái, một lời động viên an ủi, một món quà chứa đựng tình người. Xin cho chúng con biết đến vói những người bất bạnh để chia sẻ tình thương cho họ. Ước gì niềm vui trong ngày mừng Chúa Giáng Sinh không dừng lại ở những của cải vật chất hào nhoáng bên ngoài, nhưng ở tình người được nhân lên mãi, được nối kết thành vòng tay lớn, xây dựng một thế giới ngày một bình an thịnh vượng và đầy tràn hạnh phúc.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

LM ĐAN VINH - HHTM
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Cuba và Hoa Kỳ: sự thành công của “phương pháp đối thoại”
Bùi Hữu Thư
19:59 19/12/2014
Rome, 19 tháng 12, 2014 (Zenit.org)

Sự tiếp cận giữa Cuba và Hoa kỳ được coi là sự thành công của “phương pháp đối thoại”, theo lời của Đức Hồng Y Tổng Trưởng ngoại giao Pietro Parolin.

Vai trò quyết định của Đức Thánh Cha Phanxicô

Vị Tổng Trưởng Ngoại Giao nói đó là kết quả của công trình “kiên nhẫn” của các nhà ngoại giao trong bao nhiêu năm qua. Vì tất cả các chứng cớ, các quyết định, nhất là một quyết định loại này là kết quả của một công trình to lớn, của những nỗ lực, và kiên nhẫn, đi từng bước nhỏ. (...)

Vai trò của Đức Thánh Cha Phanxicô chắc chắn là quyết định, vì ngài đã có sáng kiến viết thư cho hai tổng thống để mời gọi hai người vượt thắng mọi khó khăn hiện hữu và tìm được một điểm đồng ý, một điểm gặp gỡ. Và sự kiện ngài đến từ Mỹ Châu La Tinh cũng là một lợi điểm, vì ngài thực sự hiểu biết những khó khăn và đã tìm được “một phương cách công bằng” để vượt thắng những ngăn cách và giúp dỡ cho sự tiếp cận giữa hai bên.

Nền văn hóa của sự gặp gỡ

Đức Hồng Y Parolin thấy trong biến cố này một gương mẫu của “nền văn hóa của sự gặp gỡ”: “Đức Thánh Cha đã nhiều lần nói và tôi muốn lập lại không ngừng: khi có các vấn đề chúng ta phải áp dụng phương pháp của sự đối thoại, càng có nhiều vấn đề thì càng nhiều khó khăn, và càng phải đối thoại. Và nếu cuộc đối thoại chân thành, thì mục tiêu luôn luôn là phải gặp gỡ mọi người liên hệ, dù có dị biệt đến đâu, miễn là có thể hợp tác với nhau. Dường như đây là một thí dụ tốt đẹp của “nền văn hóa của sự gặp gỡ này”, Đức Thánh Cha liên tục mời gọi mọi người, mọi nhóm người, và mọi quốc gia trên thế giơi."

Hòa Bình, sự tranh đấu chống nghèo khó và các nhịp cầu

Có ba yếu tố trong công trình ngoại giao của Vatican do Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định trong bài diễn từ đầu tiên của ngài trước ngoại giao đoàn khi ngài mới được bầu lên: "Yếu tố hoà bình, luôn luôn là đặc tính căn bản của hoạt động ngoại giao của Tòa Thánh trong nhiều thời kỳ khác nhau của lịch sử: ngày nay, cuộc tranh đấu chống khó nghèo; rồi ngài còn nói phải “xây dựng các nhịp cầu” để giúp cho sự đối thoại giữa hai bên, và Toà Thánh đã cung cấp những dịch vụ tốt đẹp, để cho hai bên có thể gặp gỡ và đạt đến một kết quả hài lòng cho cả hai bên,”

Một liều thuốc can đảm

Đức Hồng Y Parolin tiên đoán sẽ có các kết quả tích cực của sự tiếp cận này cho toàn thể Mỹ Châu: “Một bước đầu như thế này sẽ chắc chắn có những ảnh hưỏng tích cực trong tất cả Vùng Mỹ Châu La Tinh và tôi hy vọng là có những hoàn cảnh được cải tiến và tìm được giải pháp. Do đó cần phải có một mẫu mực cho hai quốc gia đã từng có quá nhiều vấn đề, nhìều sự khó khăn trong mối tương giao, và hai nước này đã có thể đi đến kết quả này, nhờ vào thiện chí và lòng can đảm của hai vị lãnh đạo – tôi muốn nhấn mạnh vào sự kiện này, vì dường như điều quan trọng là cần có một liều thuốc can đảm đến đạt được kết quả này – do đó sẽ có thể sui khiến cho các nhà lãnh đạo khác cũng có nhiều can đảm để tìm kiếm con đường đối thoại và con đường của sự gặp gỡ."

Có thể đạt tới sự thông hiểu

Về phần Giáo Hội Cuba: “Tôi nghe nói là các tháp chuông đã đang rung liên hồi về sự việc này, điều này có nghiã là Giáo Hội cũng đang hân hoan tham dự vào biến cố này. Tôi tin rằng, bước khác này cũng sẽ giúp cho Giáo Hội thi hành nhiệm vụ của mình tốt hơn trong lòng xã hội Cuba, giúp cho việc xây dựng một thực tại càng ngày càng liên đới hơn, và giúp Giáo Hội đóng góp nhiều hơn cho tất cả xã hội Cuba. Tôi muốn nói là cuối cùng có biết bao nhiêu sự hợp tác, và chúng ta phải cám ơn Thiên Chúa. Đây là một dấu chỉ tốt đẹp, một tin mừng giữa bao nhiêu tin buồn của thế giới hiện nay. Điều này cho thấy các giáo hoàng và đặc biệt là Đức Thánh Cha Phanxicô đã luôn luôn nói và nhấn mạnh, là có thể; có thể đi đến sự thông hiểu; có thể đạt đến sự hợp tác và tìm được con đường để thoát ra khỏi những khó khăn làm cho chúng ta bị chia rẽ."
 
Tin Đáng Chú Ý
Ông Ernst Albrecht, ân nhân của người Việt tị nạn qua đời
Mỹ Nga / RFA
11:31 19/12/2014
Ông Ernst Albrecht, ân nhân của người Việt tị nạn qua đời

Cựu Thống đốc bang Niedersachsen, ông TS Ernst Albrecht, một ân nhân lớn của người tị nạn VN tại Đức - người chủ xướng con tàu nhân đạo Cap Anamur cứu người vượt biển, đã qua đời vào ngày 13.12.2014.

Chúng tôi đã được hân hạnh làm quen với ông trong công tác cứu độ và đánh giá ông rất cao. Bởi vì ông ta không giống như những ông thủ hiến khác, tuy công việc của ông rất bề bộn nhưng ông vẫn muốn tự chính tay mình sắp xếp mọi việc trong vấn đề cứu giúp Thuyền Nhân hơn là chỉ ngồi nghe các cuộc bàn thảo dai dẳng đầy lý thuyết.

Một nhóm người Đức khi nghe tin ông qua đời chắc chắn sẽ rất hụt hẫng và buồn bã: đó là nhóm người Đức gốc Việt. Vì chính ông là người đã thâu nhận 1.000 người VN, một quyết định đã xảy ra cả vài tháng trước khi ý định thành lập một con tàu cứu vớt thuyền nhân ở biển Đông ra đời. Thuyền nhân VN ngày đó đã nhồi nhét chật cứng trên con tàu Hải Hồng, một loại tàu dài cổ điển chỉ dùng để đi trên sông. Con tàu này đã từng ngừng lại ở mỗi hải cảng thuộc vùng biển Nam Hải để xin phép đưa người tỵ nạn lên đất liền, nhưng đến đâu cũng chỉ nhận được sự chối từ. Biết được tin đó, không chờ đợi phê chuẩn của quốc hội liên bang, ông đã đơn phương quyết định, thâu nhận 1000 Thuyền nhân VN đang mỏi mòn tuyệt vọng. Năm 2008, trong buổi lễ kỷ niệm 30 năm tái ngộ của thuyền nhân VN, chúng tôi rất vui mừng khi được gặp lại ông, mặc dầu sức khỏe của ông ngày ấy cũng đã không lấy gì làm khả quan cho lắm.

Hình ảnh người Việt tại Đức thăm ông Ernst Albrecht, ngày 5.4.2013

Cho đến năm 1985, ông Albecht luôn luôn chứng minh cho chúng tôi, những người có trách nhiệm cho tổ chức Cap Anamur, thấy một điều, rằng chính trị không những chỉ có trách nhiệm phê duyệt và cho phép, mà chính trị còn có thể trực tiếp nhúng tay vào công tác trợ giúp nhân đạo. Ông đã thâu nhận người tỵ nạn nhiều hơn cả con số mà tiểu bang của ông bắt buộc phải thi hành. Vào một ngày Chúa Nhật nào đó của năm 1981, ông đã mời chúng tôi đến nhà của ông ở Beinhorn gần Hannover để kể cho ông nghe tường tận về hoạt động cứu trợ của con tàu Cap Anamur. Có mặt ngày hôm đó gồm Dr. Franz König, vị BS lâu đời nhất của con tàu, ông Franz Alt, người bạn đồng hành trong công cuộc cứu trợ trên phương diện truyền hình trên TV và tôi. Trong 35 năm vừa qua, tôi chưa bao giờ chứng kiến một nhà chính trị tầm cỡ nào lại tha thiết quan tâm lo lắng đến số phận con người cũng như những môi trường sống bấp bênh nguy hiểm nhất, từ hiểm nguy do hải tặc, do hãm hiếp hay do những hiểm nguy cận kề khác của biển cả… như Dr. Ernst Albrecht.

Một năm rưỡi trước đây tôi có dịp gặp lại ông trong căn nhà của ông ở Beinhorn - Hannover, căn nhà lúc này đã được con gái ông, bà Ursula von der Leyen, quán xuyến săn sóc. Ông rất mừng khi có cuộc viếng thăm, ông có vẻ như nhận ra khi nghe nhắc đến hai chữ „Việt Nam“. Một vài người Việt Nam cũng đã kịp đến viếng thăm vị ân nhân của họ.

Lòng tưởng nhớ đến Ernst Albrecht không chỉ là một tưởng nhớ suông rồi đem cất vào bảo tàng viện. Thật là quý báu khi chúng ta có lại một ai đó giống như ông, cũng có lòng can đảm, biết thương giúp người trong cơn khốn khó hoạn nạn, thâu nhận một ngàn người hay năm ngàn người vào tiểu bang của mình. Làm thế nào ư?

Có một câu chuyện thật hay mà tôi nghĩ cần phải kể lại nhân ngày ra đi vĩnh viễn của Ernst Albrecht. Ông đã dành cho Cap Anamur thật nhiều chỗ để thâu nhận người tỵ nạn, nhiều hơn cả con số mà cá nhân ông và tiểu bang của ông phải đứng ra đảm nhận. Ông thông báo cho nội các của ông như thế trong một buổi họp nội bộ. Ông bộ trưởng nội vụ Möcklinghoff nghe thế bèn viết vội vào mảnh giấy con “nhưng mà chúng ta không còn chỗ. Möcklinghoff” rồi chuyền mảnh giấy con cho ông Albrecht. Albrecht liếc nhanh vào mảnh giấy rồi viết trả lời không chần chừ, “thì ông hãy kiếm cho ra chỗ ! Albrecht.”

Câu nói đó vẫn luôn được xem như là một di sản, một chúc thư cho những ai lên thay thế ông trong vai trò thủ hiến một tiểu bang của nước Đức. Hunc meminisse iuvabit. Trong công cuộc đấu tranh dành nhiều chỗ tạm dung cho Syrer, cho Iraker, Jeziden, Eriträer, cho con chiên của Kitô giáo, của Kurden… chúng ta sẽ mãi mãi tưởng nhớ đến Ernst Albrecht.

Rupert Neudeck

Mỹ Nga phỏng dịch
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Đường Truyền Giáo
Tấn Đạt
22:28 19/12/2014
ĐƯỜNG TRUYỀN GIÁO

Ảnh của Tấn Đạt

Có tiếng người hô trong hoang địa:

“sửa lối cho thẳng để Người đi.”

(Mark 1:3).
 
VietCatholic TV
Videos: Hoan Ca Giáng Sinh - Chúng ta đi tìm Con Chúa ra đời
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
12:52 19/12/2014
Thánh Ca: Chuyện tình Emmanuel - Sáng tác: Mai Nguyên Vũ - Trình bày: Ca Sĩ Như Ý


Thánh Ca: Đêm Thánh Vô Cùng - Lời Việt: Hùng Lân - Trình Bày: Nữ Tu Thùy Linh FMA


Thánh Ca: Đêm Uy Linh – Nhạc: Thanh Lâm – Trình bày: Tố Hằng


Thánh Ca: Hang Bê Lem - Nhạc: Hải Linh - Trình bày: Cẩm Yến


Thánh Ca: Tình Yêu – Sáng tác: Nữ tu Thùy Linh, FMA do chính tác giả trình bày


Nhạc Giáng Sinh: White Christmas – Nhạc: Irvin Berlin – Trình bày: Cẩm Yến
 
Thánh Ca
Video Thánh Ca: Chuyện tình Emmanuel - Sáng tác: Mai Nguyên Vũ - Trình bày: Ca Sĩ Như Ý
VietCatholic Network
07:57 19/12/2014
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
 
Video Thánh Ca: Chuyện tình Emmanuel - Sáng tác: Mai Nguyên Vũ - Trình bày: Ca Sĩ Như Ý
VietCatholic Network
07:56 19/12/2014
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
 
Video Thánh Ca: Tình Yêu – Sáng tác: Nữ tu Thùy Linh, FMA do chính tác giả trình bày
VietCatholic Network
11:48 19/12/2014
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây