Ngày 06-08-2025
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:33 06/08/2025

6. Khi con người ta giàu có và khỏe mạnh thì tin tưởng vào mình như Thiên Chúa, mặc dù không cao siêu như Thiên Chúa, nhưng khi họ bất lực thì họ vẫn còn nhớ đến một vị chúa tể chí tôn cao siêu.

(Thánh Pi-ô Năm Dấu linh mục )

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức"


----------

http://www.vietcatholic.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://www.nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:36 06/08/2025
10. RÁN PHÂN CHÓ

Có một thư sinh tên Lục vừa cổ hủ lại vừa ngu đần, nên ai cũng lấy hắn ta ra làm trò cười.

Một lần nọ, hắn tìm đến bạn bè để học kỹ thuật trồng hoa lan, bạn bè nói:

- “Hoa lan rất thích mỡ béo, và ghét mùi hôi, nếu anh đem phân chó rán cho thật nhừ, thì mùi hôi sẽ bay mất và lưu lại dầu mỡ, sau đó đem nó tưới dưới gốc hoa, hoa lan nhất định sẽ tăng trưởng sum sê.”

Anh họ Lục ấy lập tức làm theo phương pháp ấy, kết quả mùi hôi thối ngút trời khắp hàng xóm, người hàng xóm nhao nhao đến trước cổng nhà chửi toáng cả lên.

(Tiếu Tiếu lục)



Suy tư 10:

Không ai chịu đựng nổi mùi hôi bởi rác rưởi lâu ngày, bởi xác chết, bởi phân người, bởi vì những mùi hôi ấy thường kèm theo những vi trùng bệnh hoạn, tuy nhiên những mùi hôi ấy cũng có thể dùng chất tẩy sạch để rửa sạch và khử mùi hôi.

Có một mùi hôi ghê rợn hơn mùi hôi xác chết và phân người, nó có thể làm chết linh hồn và thân xác mà cha thánh Gioan Bosco đã ngửi được nơi những học sinh phạm tội trọng của mình, đó là mùi hôi của tội lỗi, mùi hôi này nó không xuất phát từ những đống rác hố phân, ống cống, nhưng nó xuất phát từ những nơi sang trọng nhiều ánh đèn màu, nơi những lần tiệc rượu thâu đêm, nơi những hào nhoáng thác loạn của thế gian…

Mùi hôi do tội trọng mà ra thì không thể dùng xà bông hoặc thuốc tẩy cao cấp để khử trừ, nhưng phải cậy nhờ vào ân sủng và tình yêu vô biên của Thiên Chúa trong bí tích Hòa Giải, bởi vì chỉ có lòng thống hối và ăn năn dốc lòng chừa, thì mới xứng đáng hưởng ơn chữa lành của Thiên Chúa mà thôi.

Xác chết thì hôi thối không ai chịu được huống hồ là linh hồn bị chết, ai hiểu được thì hiểu...

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


---------

http://www.vietcatholic.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://www.nhantai.info
 
Văn Hóa
Hôn Nhân Đồng Tính, Lý Lẽ Công Cộng, Và Ích Chung
Vũ Văn An
00:43 06/08/2025

Bài của David. S. Crawford

“Lý lẽ công cộng như hiện đang được định hình trong nhiều quyết định của tòa án, các đạo luật lập pháp và trong các cuộc tranh luận chính trị nói chung, với sự mù quáng của nó với các cộng đồng như những toàn thể tự nhiên và toàn vẹn, đã quan niệm một cách hữu hiệu rằng tất cả các cuộc hôn nhân, trong căn bản, đều ‘đồng tính’ [gay]"

I. Dẫn nhập

Một tiểu luận liên kết “hôn nhân đồng tính” và “ích chung” qua “lý lẽ công cộng” mời gọi một kiểu lập luận có thể dự đoán được: các cuộc thảo luận về việc hôn nhân đã đóng góp như thế nào trong lịch sử cho lợi ích chung đó, việc công nhận dân sự đối với các kết hợp đồng tính có thể thách thức sự đóng góp này như thế nào và làm thế nào chúng ta có thể chứng minh điều đó trong phạm vi diễn từ công cộng thế tục, thường nại tới bằng chứng duy nghiệm hoặc thống kê nào đó.

Việc khuôn mẫu này có thể được dự đoán là điều dễ hiểu. Đối với những người trong chúng ta nghĩ rằng ý nghĩa thực sự của hôn nhân đòi hỏi nó phải là giữa một người đàn ông và một người đàn bà, bằng chứng và sức nặng của những lập luận kiểu này dường như gần như áp đảo. Từ xa xưa và trong mọi nền văn hóa, mối liên hệ toàn diện của hôn nhân với việc sinh con đã làm cho mối liên hệ của nó với ích chung trở nên rõ ràng. Thật vậy, việc từ chối kết hôn và do đó có con hợp pháp, đôi khi bị coi là một loại tội ác chống lại xã hội, như có thể thấy rõ trong những phản ứng cổ xưa đối với việc Giáo hội sơ khai cổ vũ đức đồng trinh hay độc thân như những ơn gọi khả hữu của con người. (1) Đại diện trong quan điểm cổ xưa này là một lập trường hướng về tương lai. Các thế hệ và sự đào tạo đạo đức cho họ rất quan trọng, bởi vì kinh thành như một toàn bộ là điều đáng kể.

Những khuôn mẫu tương tự cũng lên đặc điểm cho tư tưởng Kitô giáo, mặc dù tương lai đáng kể nhất nay là thời cánh chung. Tin Mừng và truyền thống của Giáo Hội mở ra tương lai này cho civitas Dei [Kinh thành Thiên Chúa]. Sự thay đổi này tất nhiên có tính căn bản. Chắc chắn con người còn hơn cả những mối liên hệ gia đình và công dân của họ. Sự sáng tạo ex nihilo [từ hư không] có nghĩa là Thiên Chúa vừa siêu việt vừa nội tại, như Thánh Augustinô quen nói, Người gần chúng ta hơn chúng ta gần chính mình. Gia đình mới và kinh thành mới chiếm ưu tiên tuyệt đối, như sự xuất hiện của đức đồng trinh thánh hiến đã chứng tỏ. Thật vậy, từ quan điểm này, người ta thấy rõ một sự mơ hồ trong đời sống hôn nhân và gia đình: nếu việc sinh sản tình dục mang lại sự sống mới thì nó cũng mang lại cái chết khi thông truyền tội nguyên tổ. Tuy nhiên, nếu Thiên Chúa đi trước mọi mối quan hệ của con người thì Người cũng là nền tảng và nâng đỡ chúng. Vì lý do này, các mối quan hệ nhân bản là “biểu tượng thực sự” của mối quan hệ bản thân với Thiên Chúa. Một hàm ý khác là thế này: mối quan hệ của Thiên Chúa với những con người không diễn ra như hàng tỷ mối quan hệ song song với từng con người cá thể, mà chỉ dưới hình thức hiệp thông các ngôi vị, cả “theo chiều dọc” lẫn “theo chiều ngang”. Không nơi nào trong thực tại tạo dựng mà sự thật đáng kinh ngạc này được thấy rõ hơn trong hôn nhân và gia đình vốn là thành quả bình thường của nó. Và điều này chính vì trong hôn nhân và gia đình, sự hiệp thông giữa các ngôi vị không bao giờ có thể bị thu gọn vào những cam kết pháp lý, luân lý hoặc lựa chọn, cho dù những cam kết này quan trọng đến đâu, nhưng là một tập hợp các mối quan hệ tự nhiên, được ghi khắc rõ ràng trong hữu thể của vợ chồng, của con cái họ và những người thân khác.

Vì vậy, khi đưa gia đình “xuống một nấc”, ảnh hưởng của Kitô giáo—có lẽ một cách nghịch lý—theo một nghĩa khác phải thâm hậu hóa sức nặng siêu hình của nó và làm lớn hơn tầm quan trọng trong vai trò của nó. Một biểu thức của sự đào sâu này xảy ra trong Thư gửi các Gia đình của Đức Gioan Phaolô II, trong đó vị thánh mới mô tả nguồn gốc và sứ mệnh của hôn nhân như một sự khai triển từ cơ cấu Ba Ngôi của sự hiệp thông hôn nhân và gia đình, qua điều được ngài gọi là “gia phả ngôi vị” (nghĩa là nguồn gốc của mọi sự phát sinh bản vị ở trong Chúa Cha), qua “việc làm cha mẹ có trách nhiệm” đến nhiệm vụ hình thành ra “nền văn minh tình yêu”. (2) Cũng như người xưa, nhiệm vụ vẫn là sinh sản, nuôi dưỡng và đào tạo cho “kinh thành”, nhưng giờ đây ngay cả trách nhiệm công dân này cũng mang trong mình tất cả sức nặng vô hạn của vận mệnh có tính giáo hội và cánh chung của nhân loại.

Chính những sự thật trường cửu này về ý nghĩa và mục đích của hôn nhân đối với trật tự dân sự mà “hôn nhân đồng tính” dường như đang hoàn toàn thay đổi cái hiểu xưa nay về nó. Với tư cách là một sự phát triển về mặt pháp lý và văn hóa, nó tuân theo luận lý nhằm tư hữu hóa hoàn toàn hôn nhân. Dường như nó tuyên bố rằng hôn nhân dân sự chỉ đơn giản là một sáng tạo của nhà nước, chứ không phải là việc làm thành luật một mối quan hệ tự nhiên và bí tích đã được ghi khắc trong việc tạo khớp nhân tính thành nam và nữ. Khi giả định rằng ham muốn tình dục có thể chính đáng khi được hướng tới giới tính của chính mình một cách hợp lý cũng như tới giới tính khác, điều đó gợi ý rằng mối tương quan tình dục qua lại giữa nam và nữ chỉ có tầm quan trọng về mặt vật chất, có lẽ chỉ là một tạo tác của sinh học tiến hóa không có ý nghĩa bản vị nhiều. Nó tương quan qua lại với những giả định văn hóa rộng hơn cho rằng tình dục và do đó hôn nhân không được sắp xếp một cách nội tại hoặc thậm chí không nhất thiết liên quan đến việc sinh con và nuôi dạy con cái, mà con cái là một loại lựa chọn hoặc lựa chọn lối sống đối với người lớn. (3) Khi làm như vậy, có vẻ như người ta cho rằng sự sống còn của xã hội theo thời gian là một tình cờ may mắn hoặc sản phẩm phụ của những lựa chọn lối sống này, tương tự như một ngoại tác [externality] có lợi trên thị trường. (4) Dựa trên những sự giản lược sinh học này, nó cũng gợi ý rằng khi có con cái hiện diện trong gia đình, việc có cả cha lẫn mẹ không phải là điều đặc biệt quan trọng. (5) Theo cách này, có vẻ như ngầm coi nhẹ tầm quan trọng của những thực tại nhân bản căn bản, chẳng hạn như tình cha, tình mẹ, và thậm chí cả chính tuổi thơ, cũng như được thụ thai trong một hành vi yêu thương thể xác, được cưu mang trong bụng mẹ, được sinh ra, được nuôi dưỡng. Đương nhiên, phản ứng đầu tiên của chúng ta là cố gắng thẳng thừng bác bỏ việc phá bỏ mối liên hệ giữa hôn nhân và việc sinh con. Chúng ta cố gắng tập trung sự chú ý vào mối liên hệ trường cửu và dường như hiển nhiên giữa hôn nhân và việc sinh con cái, đồng thời chúng ta nhắc lại việc lưu ý tới ích lợi của xã hội trong việc ổn định và phát huy cộng đồng giữa cha, mẹ và con cái mà họ cùng nhau duy trì. Thật không may, cho dù nhiều người trong chúng ta thấy những lời phản bác này có vẻ thuyết phục đến đâu, chúng vẫn được cho là thiếu sót, và ít nhất trong bối cảnh nước Mỹ, thậm chí là phi lý xét theo quan điểm tranh luận công khai. (6) Do đó, điều quan trọng là phải hỏi tại sao những lập luận rất trung thực này lại thất bại đáng kinh ngạc đến thế trong thập niên vừa qua và hơn thế nữa.

Cuộc thảo luận của tiểu luận này tiếp cận chủ đề từ điều tôi hy vọng là một hướng đi mới. Thay vì hỏi hôn nhân đồng tính có thể ảnh hưởng như thế nào đến ích chung, thay vào đó, nó sẽ đặt câu hỏi về các giả định của chúng ta về điều gì tạo nên ích chung và làm thế nào những giả định đó có thể tạo ra một hình thức của cả lý lẽ công cộng và tình dục mà biểu thức rõ ràng nhất trên thực tế xảy ra trong “hôn nhân đồng tính nam." Tắt một lời, nhiệm vụ của chúng ta ở đây có tính chẩn đoán (diagnostic), ít nhất là trong trường hợp đầu tiên. Theo quan điểm của tôi, việc tái quan niệm ích chung trong nền văn hóa của chúng ta đã làm cho lối hiểu của Công Giáo về hôn nhân và gia đình – hay bất cứ sự hiểu biết truyền thống nào về vấn đề này – phần lớn trở nên khó hiểu và đã thay thế nó bằng một mô hình về tình yêu hôn nhân và tình dục vốn có tính “gay” [đồng tính nam), nói một cách khiêu khích.

II. Ích chung

1. Người ta thường cho rằng ý nghĩa chính xác của “ích chung” vẫn còn khá mơ hồ. Một phần điều này là do các nguồn chính từ truyền thống—Thí dụ: Aristốt, Thánh Augustinô và Thánh Tôma – đã không đưa ra được nhiều định nghĩa rõ ràng hoặc hoàn toàn rõ ràng cho chúng ta. Các tác giả tiếp theo, nói chung, đã thất bại trong việc đưa ra ánh sáng rõ ràng cho vấn đề. Họ đã tranh luận về việc liệu đó chỉ đơn giản là những điều tốt cá nhân được cung cấp cho các thành viên của một cộng đồng, hay tổng hợp các điều tốt đó, (7) hay mục tiêu chung của một cộng đồng, hay việc đào tạo và đối thoại đang diễn ra về những điều tốt của một cộng đồng, hay nhân đức của các thành viên trong một cộng đồng, hoặc những điều tốt đẹp nội tại trong trật tự riêng của một cộng đồng, hoặc một số cấu hình khác như vậy. Những thành tố duy nhất có vẻ chắc chắn cũng mang tính định nghĩa, thậm chí trùng nghĩa: “ích chung ” hẳn vừa “ích” vừa “chung”. (8) Nhưng dường như có rất ít sự đồng thuận về nội dung của hai yếu tố này.

Vì mục đích của chúng ta, có lẽ nên bắt đầu bằng cách trích dẫn việc Vatican II nói về “ích chung” (bonum commune), một cách nói được nhắc lại trong Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo và gần đây hơn là trong Bản tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo. (9) Những điều này cho chúng ta biết ích chung có thể được định nghĩa là “toàn thể các điều kiện xã hội cho phép con người, với tư cách là nhóm hoặc cá nhân, đạt được sự thành toàn của mình đầy đủ hơn và dễ dàng hơn.” (10) Phần cuối cùng của câu này nhấn mạnh ý tưởng thành toàn [fulfillment]. Ích chung gắn liền một cách nội tại với sự thiện luân lý đích thực của con người, như Bản Tóm lược nói với chúng ta, (11) điều này tất nhiên có nghĩa là “sự thiện” của con người theo nghĩa tuyệt đối, nghĩa là nói về số phận, cuối cùng, của con người trong Thiên Chúa. Đó là biểu thức xã hội nói lên điều tốt đẹp về mặt đạo đức của con người. Như Bản Tóm lược cũng cho chúng ta biết, nó không thể bị giản lược thành những thiện ích cụ thể vốn quan trọng để đạt được nó. (12) Về phần mình, Sách Giáo lý nhấn mạnh, như nền tảng của ích chung, “các quyền tự do không thể thiếu cho việc phát triển ơn gọi nhân bản.” (13).

Nếu định nghĩa trên là điểm khởi đầu hợp luận lý thì nó vẫn đặt ra những câu hỏi đáng lưu ý. Nó dường như phản ảnh quan điểm đã được đưa ra trước đó về mối liên hệ giữa đời sống công dân, thông qua khái niệm “nền văn minh tình yêu” và số phận cánh chung của con người. Nhưng như chúng ta đã thấy, ích chung được hiểu một cách đúng đắn ít nhất phải là lợi ích chung chứ không chỉ là một tập hợp những lợi ích cá nhân. Điều này có lẽ gợi ý một sự mơ hồ nhất định trong định nghĩa, dường như nhấn mạnh đến sự thành toàn của các thành viên trong xã hội. Vậy thì chúng ta phải làm gì với định nghĩa này?

Có lẽ sự bất đồng về ý nghĩa của ích chung một phần là do tính chất tương tự vốn có của cụm từ này. Có lẽ các quan điểm khác nhau được trích dẫn ở trên, trên thực tế, thẩy đều đúng, mặc dù tập chú vào các ý nghĩa khác nhau. Không hề chủ trương hay có ý định đưa ra một giải pháp dứt khoát cho những bất đồng về ý nghĩa của thuật ngữ này, có lẽ, ít nhất, chúng ta cũng có thể gợi ý một vài cách xem xét nó. (14) Đầu tiên, chúng ta có thể hiểu “ích chung” là tổng số những lợi ích cá nhân, một cách nào đó, đáp ứng nhu cầu của các thành viên trong cộng đồng. Khi đó, lý do xác đáng để gọi chúng là “chung” sẽ là: chỉ có cuộc sống trong một cộng đồng hay một xã hội mới cho phép chúng ta thể hiện chúng, hoặc thể hiện chúng một cách dự đoán được, chắc chắn hoặc an toàn cao hơn. Nghĩa này của ích chung có thể bao gồm những điều tốt đẹp mà các cộng đồng tìm kiếm nhằm mục đích duy nhất là đạt được một số mục tiêu hoặc một loạt mục tiêu, vì những mục tiêu này có lẽ phải vì lợi ích của tất cả hoặc một phần cộng đồng hoặc cho một cộng đồng lớn hơn, chẳng hạn như xã hội dân sự, mà cộng đồng nhỏ hơn là một phần của xã hội này. Rõ ràng nghĩa này của ích chung không nhất thiết chỉ mang tính tư lợi, ít nhất là theo nghĩa tiêu cực. Thí dụ, một nhóm từ thiện nhằm mục đích giảm nghèo có thể sẽ coi “ích chung” của mình là điều tốt cho cả người nghèo lẫn xã hội dân sự nói chung. Nghĩa này của ích chung cũng có thể mô tả ích chung của xã hội dân sự nói chung, trong chừng mực chúng ta nhìn nó dưới góc độ của cải và lợi ích được cung cấp cho các thành viên của xã hội do tư cách thành viên của họ. Khi đó, dù sao, tập chú là lợi ích của từng cá nhân (hoặc các thành viên của cộng đồng hoặc của một xã hội lớn hơn hoặc cả hai). Ở bình diện xã hội dân sự, nó có thể đề cập đến cơ sở hạ tầng, các dịch vụ xã hội và điều kiện kinh tế phục vụ cho việc thực hiện những nguyện vọng và sự thỏa mãn cá nhân của từng công dân. Thông thường nghĩa này của ích chung đề cập đến của cải vật chất, chẳng hạn như của cải hoặc an toàn vật chất. Nhưng nếu chúng ta nghĩ về nó một cách rộng hơn dưới dạng những thiện ích hoặc sự thỏa mãn được chuyển tới các thành viên, thì không có lý do gì nó không bao gồm những thiện ích vô hình, phi vật chất hoặc thậm chí thiêng liêng, chẳng hạn như sự ổn định xã hội hoặc kiến thức chung hoặc lợi ích cá nhân hoặc sự thành toàn nghề nghiệp được Gaudium et spes Dignitatis humanae đề cập tới. Rõ ràng gia đình cống hiến một ích chung theo nghĩa này: chắc chắn mục đích của gia đình là mang lại lợi ích cho các thành viên trong gia đình và cho xã hội nói chung. Điều quan trọng ở đây là nghĩa đầu tiên này, nếu hiểu đơn giản theo cách thích đáng của nó, hiểu ích chung từ góc độ hướng nó đến các thiện ích, các phúc lợi hoặc sự thành toàn của các cá nhân thành viên trong cộng đồng, được xem xét trong chín họ.

Một chỉ trích thường xuyên về ý tưởng này và những ý tưởng tương tự về ích chung là lời chỉ trích đã được đề cập vừa rồi: suy cho cùng, chúng có thể thiếu yếu tố chung, hoặc ít nhất là đưa ra một phiên bản nghèo nàn về nó. Trong khi thiện ích cá nhân có thể được coi là sản phẩm hoặc thành quả của đời sống tập thể, tuy nhiên, dường như đúng hơn chúng là các thiện ích của các cá nhân được cuộc sống đó mang lại. Khi đó, ích chung sẽ được giản lược thành những gì chúng ta cùng nhau thực hiện hoặc song song như những thành toàn của cá nhân. Trong trường hợp đó, những thiện ích này dường như là “ngoại tại” một cách đáng ngờ đối với chính cộng đồng, do đó, ngược lại, dường như chỉ là công cụ giúp các cá nhân đạt được thành tựu của họ. Ngay cả các thiện ích thuộc cơ sở hạ tầng xã hội, kinh tế hoặc thể lý - mặc dù không thuộc về bất cứ cá nhân nào - cũng sẽ là “ngoại tại” theo nghĩa này, bao lâu chúng ta chỉ hiểu mục đích của chúng ở khía cạnh làm cho sự thành đạt và thiện ích cá nhân trở thành khả hữu.

Quả thực, xét theo kết luận hợp lý của nó, quan điểm về ích chung này có thể khiến chúng ta rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Một mặt, chắc chắn ích chung trên thực tế phải có tính sinh ích hoặc đáp ứng nhu cầu cho các thành viên của cộng đồng, kẻo nó thiếu yếu tố tốt đẹp (vì nó không mang lại cho họ lý do thực tế nào để theo đuổi nó). (15) Mặt khác, nếu ích chung chỉ được nhìn theo những thuật ngữ này, nó có xu hướng thiếu đòi hỏi căn bản về tính chung, bởi vì “điều tốt” được quan niệm một cách chặt chẽ theo những điều kiện cá nhân. Thực thế, quan điểm này đặt hai yếu tố “tốt đẹp” và “chung” xung đột với nhau: bao lâu chúng ta nhấn mạnh đến “tính tốt đẹp” của ích chung, chúng ta làm giảm giá trị “tính chung” của nó; bao lâu chúng ta nhấn mạnh đến “tính chung” của ích chung, chúng ta đang làm giảm giá trị của “tính tốt đẹp” của nó. Do đó, quan niệm về ích chung này, nếu xét theo giá trị riêng của nó, dường như không phải là một cách dùng hoàn toàn đúng đắn. Do đó, cần phải nói nhiều hơn về ích chung để giải cứu nó. Tuy nhiên, vì ích chung, trên thực tế, chắc chắn phải tốt cho các thành viên của nó, kẻo nó không mang lại cho họ lý do hợp lý nào để theo đuổi nó, nên nghĩa đầu tiên này dường như là một điều không bao giờ được bỏ qua như một phần của một tuyên bố hoàn chỉnh.

Tôi nghi ngờ rằng (có lẽ có thể hiểu được) chúng ta vẫn thường nghĩ tới nghĩa này mỗi khi nghe cụm từ “ích chung”. Nếu đúng như thế, có lẽ đó là do quan điểm văn hóa của chúng ta vốn rất đề cao quyền tự do và sáng kiến cá nhân và có xu hướng coi cộng đồng là tập hợp các cá nhân. Do đó, việc đọc định nghĩa của Vatican II có thể giới hạn nó trong nghĩa này. Tuy nhiên, việc ích chung phải vừa tốt hoặc đáp ứng đích thực cho các thành viên của nó, vừa không chỉ đơn thuần là những đáp ứng song song hoặc riêng tư, gợi ý rằng nghĩa đầu tiên này của ích chung phải bắt nguồn từ một nghĩa sâu sắc hơn.

Lần đọc thứ hai có thể có nghĩa là tính tốt đẹp của các thành viên của một cộng đồng, tính tốt đẹp mà họ mang lại cho cộng đồng nói chung. Thí dụ, một nhóm người thậm chí không thực sự là một cộng đồng, mà đúng hơn là một đám đông vô chính phủ, nếu không có ít nhất những nguyên tắc tạo trật tự thô sơ, chẳng hạn như công lý, không đạt được, và điều này đòi hỏi ít nhất một mức độ tốt đẹp nào đó về phần các thành viên. Có lẽ ngay cả câu tục ngữ “danh dự giữa những tên trộm” cũng thể hiện một mức độ “tốt đẹp” nào đó (tuy chưa được giác ngộ). Tính tốt đẹp của các thành viên cộng đồng, nhân đức của họ, không thể tách rời khỏi cộng đồng (16) trong chừng mực cộng đồng thực sự là các thành viên của nó. Đây sẽ là lý do xác đáng để gọi nghĩa này của ích chung là “chung”: các nhân đức không những là các yêu cầu nội tại của bất cứ cộng đồng chân chính nào, mà, như Aristốt đã dạy, trong nguyên tắc, chúng cũng đòi hỏi một cộng đồng để thể hiện chúng, cả về mặt đào tạo hay giáo dục lẫn về mặt thực hành chúng. (17)

Rõ ràng ý nghĩa về lợi ích chung này trùng lặp ở một mức độ nào đó với ý nghĩa đầu tiên. Nếu ích chung, ít nhất, theo một nghĩa nào đó là “cầu toàn” [perfectionist], nghĩa là nếu nó mang lại sự cải thiện nào đó về mặt đạo đức cho các thành viên của nó, thì nó sẽ đồng quy phần nào với nghĩa thứ nhất, như tôi đã mô tả ở trên. Tuy nhiên, điểm khác biệt của nó nằm ở chỗ nó tập chú vào tính tốt đẹp được chính các thành viên sở hữu, điều mà sau đó họ mang đến cho cộng đồng trong đặc điểm và việc tổ chức của nó. Một cộng đồng chỉ có thể tốt chừng nào các thành viên của nó mang lại cho nó một trật tự đức hạnh, bao gồm các tiêu chuẩn ứng xử căn bản của cộng đồng: tính hợp lý, công bằng, tình yêu, tình bạn, quan hệ hòa bình, v.v. Nếu nghĩa đầu tiên về “ích chung” hướng đến lợi ích cho các thành viên cá nhân, thì nghĩa thứ hai này bắt đầu với tính tốt đẹp của các thành viên và tính tốt đẹp mà họ cùng nhau cống hiến cho kinh thành như một toàn thể có trật tự. Nghĩa thứ hai về ích chung này cũng được ám chỉ rõ ràng trong định nghĩa của Vatican II, khi nhấn mạnh đến sự phát triển đạo đức của công dân. Tuy nhiên, nghĩa thứ hai này về điều tốt, liên quan đến sự tốt lành của các thành viên cộng đồng, ít nhất về mặt khái niệm vẫn khác biệt với chính cộng đồng đó, nếu cộng đồng được hiểu không chỉ đơn thuần là các thành viên của nó. Do đó, giống như nghĩa thứ nhất, nó có thể chưa nói đủ về điều gì làm cho ích chung thực sự là “chung”.

Còn tiếp