Rembrandt, Sự trở về của đứa con hoang đàng, 1667, Bảo tàng Hermitage, St. Petersburg ©


Theo Kathleen N. Hattrup của tạp chí Aleteia, xuất bản ngày 16/04/25, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã thay đổi một chút chủ đề của các bản văn vào buổi yết kiến thứ Tư, không tập trung vào các tường thuật trong Tin mừng về những cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu của những tuần trước.

Trong khi sức khỏe của Đức Giáo Hoàng đang có tiến triển tốt và ngài đã xuất hiện trước công chúng nhiều lần (mặc dù ngắn ngủi), ngài vẫn chưa có buổi tiếp kiến công khai vào thứ Tư với các tín hữu. Tuy nhiên, giống như những tuần trước, bài phát biểu của ngài đã được Vatican công bố.

Thay đổi một chút so với trọng tâm của những tuần trước về các tường thuật trong Tin mừng về những cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu và cách hy vọng nảy sinh từ đó, ngày 16 tháng 4 năm nay, ngài bắt đầu xem xét các dụ ngôn của Chúa Giêsu và cách chúng mang lại hy vọng.

Ngài bắt đầu bằng cách xem xét Dụ ngôn Người con hoang đàng (hay như Đức Gioan Phaolô II đã gọi là Dụ ngôn Người cha thương xót). Ngài lưu ý rằng người con "vâng lời" là người có nguy cơ bị loại khỏi bữa tiệc.

Sau đây là bản dịch sang việt ngữ bản văn của Đức Phanxicô, dựa vào bản tiếng Anh do Vatican công bố:

Anh chị em thân mến,

Sau khi suy gẫm về những cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với một số nhân vật trong Tin mừng, tôi muốn dừng lại, bắt đầu bằng bài giáo lý này, về một số dụ ngôn. Như chúng ta đã biết, đây là những câu chuyện lấy cảm hứng từ hình ảnh và tình huống trong thực tế hàng ngày. Đó là lý do tại sao chúng cũng tác động đến cuộc sống của chúng ta. Chúng khiêu khích chúng ta. Và chúng yêu cầu chúng ta đưa ra quan điểm: tôi đang ở đâu trong câu chuyện này?

Chúng ta hãy bắt đầu với dụ ngôn nổi tiếng nhất, dụ ngôn mà có lẽ tất cả chúng ta đều nhớ từ khi còn nhỏ: dụ ngôn về người cha và hai người con (Lc 15:1-3, 11-32). Trong đó chúng ta tìm thấy trọng tâm của Tin mừng Chúa Giêsu, cụ thể là lòng thương xót của Thiên Chúa.

Thánh sử Luca kể rằng Chúa Giêsu kể dụ ngôn này cho những người Pharisiêu và kinh sư, những người than thở việc Người ăn uống với những người tội lỗi. Đây là lý do tại sao có thể nói rằng đây là câu chuyện ngụ ngôn dành cho những người lạc lối nhưng không biết điều đó và phán xét người khác.

Tin mừng có mục đích mang đến cho chúng ta sứ điệp hy vọng, vì nó cho chúng ta biết rằng bất cứ nơi nào chúng ta bị lạc lối, và bất kể chúng ta bị lạc lối như thế nào, thì Thiên Chúa luôn luôn tìm kiếm chúng ta! Có lẽ chúng ta đã đi lạc như một con chiên, lạc khỏi đường đi ăn cỏ, hoặc bị tụt lại phía sau vì mệt mỏi (x. Lc 15:4-7). Hoặc có thể chúng ta đã bị lạc như một đồng xu, có lẽ đã rơi xuống đất và không còn tìm thấy nữa, hoặc ai đó đã để nó ở đâu đó và không thể nhớ ra. Hoặc có thể chúng ta cũng lạc lối như hai người con trai của người cha này: người con út vì cảm thấy mệt mỏi khi phải ở trong một mối quan hệ mà anh cảm thấy quá khắt khe; nhưng người con cả cũng bị lạc lối, vì ở nhà thôi thì chưa đủ nếu trong lòng còn lòng kiêu hãnh và oán giận.

Tình yêu luôn là một sự cam kết, luôn có điều gì đó chúng ta phải mất đi để có thể đến với nhau. Nhưng người con thứ trong câu chuyện ngụ ngôn chỉ nghĩ đến bản thân mình, điều thường xảy ra trong một số giai đoạn của thời thơ ấu và tuổi thiếu niên. Trên thực tế, chúng ta cũng thấy xung quanh mình rất nhiều người lớn cũng giống như vậy, những người không thể duy trì mối quan hệ vì họ ích kỷ. Họ tự lừa dối mình rằng họ sẽ tìm thấy chính mình nhưng thay vào đó họ lại đánh mất chính mình, bởi vì chỉ khi chúng ta sống vì ai đó thì chúng ta mới thực sự sống.

Cậu con trai út này, giống như tất cả chúng ta, khao khát tình cảm, cậu muốn được yêu thương. Nhưng tình yêu là một món quà quý giá; cần phải xử lý cẩn thận. Ngược lại, anh ta phung phí nó, coi thường nó, không tôn trọng chính mình. Ông nhận ra điều này vào thời kỳ đói kém, khi không ai quan tâm đến ông. Nguy cơ là trong những khoảnh khắc đó, chúng ta sẽ cầu xin tình âu yếm và gắn bó với ông chủ đầu tiên mà chúng ta tình cờ gặp.

Chính những trải nghiệm này khiến chúng ta có niềm tin sai lệch rằng chúng ta chỉ có thể ở trong một mối quan hệ như những người đầy tớ, như thể chúng ta phải chuộc lại tội lỗi hoặc như thể tình yêu đích thực không thể tồn tại. Thật vậy, người con trai út, khi chạm đến đáy vực, nghĩ rằng mình sẽ quay về nhà cha để lượm một chút tình cảm vụn vặt từ mặt đất.

Chỉ có những người thực sự yêu thương chúng ta mới có thể giải thoát chúng ta khỏi quan điểm sai lầm này về tình yêu. Trong mối quan hệ với

Chúa ơi, chúng ta có chính xác trải nghiệm này. Họa sĩ vĩ đại Rembrandt, trong một bức tranh nổi tiếng, đã mô tả một cách tuyệt đẹp cảnh đứa con hoang đàng trở về. Có hai chi tiết đặc biệt khiến tôi chú ý: đầu của chàng trai trẻ được cạo trọc, giống như đầu của một người ăn năn, nhưng cũng giống như đầu của một đứa trẻ, bởi vì đứa con này đang được tái sinh. Và sau đó là đôi bàn tay của người cha: một bàn tay nam và một bàn tay nữ, để mô tả sức mạnh và sự dịu dàng trong vòng tay tha thứ.



Nhưng chính người con cả mới là người đại diện cho những người mà câu chuyện ngụ ngôn này được kể: anh ta là người con luôn ở nhà với cha mình, nhưng lại xa cách cha mình, xa cách trong trái tim. Người con trai này có thể cũng muốn rời đi, nhưng vì sợ hãi hoặc bổn phận, anh ta vẫn ở lại đó, trong mối quan hệ đó. Tuy nhiên, khi bạn không muốn thích nghi, bạn bắt đầu nuôi dưỡng sự tức giận bên trong mình, và sớm muộn gì cơn tức giận này cũng bùng nổ. Nghịch lý thay, chính người con cả cuối cùng lại có nguy cơ bị bỏ rơi, bởi vì anh ta không chia sẻ niềm vui với cha mình.

Người cha cũng tiến về phía anh ta. Ngài không trách móc hay gọi ông đến làm bổn phận. Ngài chỉ muốn ông cảm nhận được tình yêu của Ngài. Ngài mời ông bước vào và để cánh cửa mở. Cánh cửa đó vẫn mở cho chúng ta nữa. Thật vậy, đây chính là lý do để hy vọng: chúng ta có thể hy vọng vì chúng ta biết rằng Chúa Cha đang chờ đợi chúng ta, Ngài nhìn thấy chúng ta từ xa, và Ngài luôn để cánh cửa mở.

Anh chị em thân mến, vậy thì chúng ta hãy tự hỏi mình đang ở đâu trong câu chuyện tuyệt vời này. Và chúng ta hãy cầu xin Chúa Cha ban ơn để chúng ta cũng có thể tìm được đường trở về nhà.