CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH NĂM C : GA 21,1-19

1Khi ấy, Đức Giê-su lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Người tỏ mình ra như thế này. 2Ông Si-môn Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, ông Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. 3Ông Si-môn Phê-rô nói với các ông : “Tôi đi đánh cá đây.” Họ đáp : “Chúng tôi cùng đi với anh.” Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.

4Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giê-su. 5Người nói với các ông : “Này các chú, không có gì ăn ư?” Các ông trả lời : “Thưa không.” 6Người bảo các ông : “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. 7Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô : “Chúa đó !” Vừa nghe nói “Chúa đó !”, ông Si-môn Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. 8Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.

9Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. 10Đức Giê-su bảo các ông : “Đem ít cá mới bắt được tới đây !” 11Ông Si-môn Phê-rô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được 153 con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. 12Đức Giê-su nói : “Anh em đến mà ăn !” Không ai trong các môn đệ dám hỏi “Ông là ai?”, vì các ông biết rằng đó là Chúa. 13Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy. 14Đó là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.

15Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giê-su hỏi ông Si-môn Phê-rô : “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy hơn các anh em này không?” Ông đáp : “Thưa Thầy có, Thầy biết con thương mến Thầy.” Đức Giê-su nói với ông : “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy.” 16Người lại hỏi : “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không?” Ông đáp : “Thưa Thầy có, Thầy biết con thương mến Thầy.” Người nói : “Hãy chăn dắt chiên của Thầy.” 17Người hỏi lần thứ ba : “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có thương mến Thầy không?” Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần : “Anh có thương mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con thương mến Thầy.” Đức Giê-su bảo : “Hãy chăm sóc chiên của Thầy. 18Thật, Thầy bảo thật cho anh biết : lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.” 19Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông : “Hãy theo Thầy.”


TIN : MỘT CHUYỆN TÌNH

Trang Tin Mừng tuyệt đẹp của thánh Gio-an hôm nay tỏ lộ cho ta một điều rất cơ bản. Cuộc phục sinh của Đức Giê-su đã làm dấy lên nhiều tranh luận : các nhà duy lý nói nó bất khả, các nhà thần học thì viết đủ bộ sách về chủ đề khó khăn ấy. Nhưng phần Đức Giê-su phục sinh, trong câu chuyện ta đang đọc, thì chỉ đơn giản yêu cầu một sự gắn bó nghĩa tình: “Này Phê-rô, anh có yêu mến Thầy không?”

1- Chính tình yêu mở đôi mắt của đức tin.

Người ta thường nói : lòng tin có 3 mức độ : tin có, tin lời và tin người. Xin đan cử vài ví dụ: thiên hạ tin có Ông Trời, tín hữu tin có Thiên Chúa, ma quỷ cũng tin như vậy. Tin có như thế nhưng chưa chắc đã mến yêu. Một thiếu nữ quen với một chàng trai, tin lời anh ta nói có bằng cấp này, gia sản nọ, có tình yêu chân thật dành cho cô; nhưng khi anh ta rủ đi vào khách sạn thì cô quyết liệt từ chối, bởi lẽ cô chưa tin con người của anh, chưa thấy tình yêu của anh được một kiểu cam kết nào đó bảo đảm, và bản thân cô cũng chưa thể biết anh ta cách trọn vẹn và yêu anh ta cách đúng nghĩa. Tin người đi liền với yêu người vậy !

Sang ví dụ Tin Mừng. Chẳng gây ấn tượng sao việc ngư phủ đầu tiên nhận ra kẻ vô danh đang đứng trên bờ hồ, chính là Gio-an, người tự xác định là “môn đệ được Đức Giê-su thương mến.” Y như trong câu chuyện mồ trống, nơi ông đã chạy nhanh hơn Phê-rô, nay ở đây ta cũng thấy Gio-an vượt trước vị phụ trách của mình : vì được mến yêu, vi yêu mến nhiều… nên ông là người đầu tiên nhận ra bạn hữu chí thiết.

Đấy là một kinh nghiệm chúng ta thường có trong cuộc sống. Giữa một đám đông, đôi mắt chúng ta, theo bản năng, chọn lọc ra vài khuôn mặt : những người chúng ta từng gặp gỡ. Nhận ra ai, đó là một chuyện tình cảm. Đừng hỏi một vị hôn thê (vợ chưa cưới) làm sao cô lại nhận ra “tình yêu” của mình qua vài chi tiết nhỏ mà chỉ mình cô mới để ý.

Đức tin/lòng tin cũng vậy, trước hết không phải là chuyện tin vào nhiều ý tưởng nhưng là tín nhiệm một người nào đó. Người ta thường nói đến đức tin/lòng tin như một sự tán thành nhiều chân lý. Không sai. Nhưng điều quan trọng là phải nhận thấy tin trước hết là gắn bó tình yêu với một con người. Việc này không tạo ra chân lý, nhưng giúp thấy chân lý nhanh hơn, hoàn toàn hơn, tích cực hơn, Chỉ có kẻ đang yêu mới hiểu người mình yêu cách rõ rệt.

Phải thêm rằng việc hiểu biết con người có bản chất hoàn toàn khác với việc hiểu biết sự vật. Để hiểu biết cách khoa học một đồ vật, người ta cân đo nó, phân tích nó. Nhưng tri thức này, rốt cục, vẫn hời hợt. Một con người, dù sao, không thể chỉ được biết theo cách ấy. Nhà bác học vĩ đại nhất trên thế giới sẽ chẳng bao giờ biết được những bí mật của vợ mình, nếu bà không tỏ lộ cho ông. Và bà sẽ chỉ tỏ lộ cho ông nếu bà yêu ông. Phương cách duy nhất để thực sự biết một con người, đó là lắng nghe đương sự, khi đương sự mở lòng cho ta cùng thổ lộ cho ta những gì sâu kín nhất trong con tim đương sự, vả ta sẵn sàng tin vào. Vâng, chính tình yêu giúp cho chúng ta thấu hiểu. Một con người chỉ được biết rõ khi được ta tin yêu. (Xin xem bài “Biết nhờ tin nhân chứng” kèm theo).

2- Chính đức tin mới đáp lại tình yêu thực sự.

Thiên Chúa không phải là một vấn đề. Đó là một Đấng “đứng trước cửa và gõ để vào” nếu ta mở ra cho Người (x. Kh 3,20). Người sẽ chẳng vào bằng vũ lực. Ta sẽ chỉ mở ra cho Người nếu yêu mến Người.

Hãy ý thức về sự khác biệt lớn lao giữa hai loại câu hỏi : “Này các chú, không có gì ăn ư?” và “Này Phê-rô, anh có yêu mến Thầy không?” Trước câu hỏi thứ nhất, người ta trả lời bằng một nhận định mang tính thường nghiệm. Trước câu hỏi thứ hai, người ta chỉ trả lời được nếu có lòng thương mến.

Thế mà mọi câu trả lời của đức tin chúng ta đều thuộc loại thứ hai : “Anh có muốn Giao ước với Thầy không? Có muốn yêu Thầy không? Có tin vào Thầy không? Anh có muốn tín nhiệm Thầy và sống với Thầy từ đây không?”

Đức tin thành thử không phải là một chọn lựa thuần túy của trí tuệ; đấy là một sự dấn thân, cam kết đối với ai đó, y như kiểu một vị hôn phu (chồng chưa cưới) cam kết bản thân khi nói : “Tôi tin vào vị hôn thê của mình, tôi hoàn toàn tín nhiệm nàng, và tôi sẵn sàng dấn thân để ở với nàng mãi mãi.”

Và khi Phê-rô đã trả lời Đức Giê-su : “Vâng, Thầy biết con thương mến Thầy”, chúng ta hiểu rằng điều đó đã lôi ông đi rất xa. Ông đã lãnh trách nhiệm về đàn chiên của Đức Giê-su, tức Giáo hội…. và ông đã thực sự theo Đức Giê-su cho tới cùng, cho tới chứng tá tử đạo. (“Bị thắt lưng và dẫn đi” nghĩa là bị quân lính buộc dây vào người, lôi đến nơi đóng đinh, đang khi hai tay bị trói vào thanh ngang thập giá mà mình phải vác).

Không, đức tin trước hết chẳng phải là một danh mục các ý tưởng, các chân lý, song là việc “biết ai đó”, một sự hiểu biết phải tiến triển bằng việc lui tới gặp gỡ con người này. Chính nhờ cố sức sống với kẻ ta thương mến mà ta khám phá ra nhiều khía cạnh mới của bản thân đương sự. Lạy Chúa, xin giúp chúng con yêu mến Ngài, để chúng con tin vào Ngài hơn nữa.

“Này Phê-rô, anh có yêu mến Thầy không?” Thay tên mình vào tên Phê-rô, tôi lập tức nghe Đức Giê-su giao phó cho mình một trách nhiệm ! Tôi nghĩ đến các trách nhiệm của mình đối với những con người mà tôi phải chăm lo : gia đình, lớp dạy, cộng đoàn, giáo xứ….


BIẾT NHỜ TIN NHÂN CHỨNG

(Viết cho mọi người)

Mở đề

Tại Việt Nam, mà có lẽ cũng khắp thế giới, người ta hay nói Kitô giáo là một đạo đề cao đức tin, Kitô hữu là những người được dạy phải có lòng tin : tin Chúa, tin đạo. Dư luận này xem ra không phải mang tính cách khen ngợi nhưng là mai mỉa. Họ chê Kitô hữu dù không thấy cứ nhắm mắt mà tin, dù không hiểu cứ cúi đầu mà tin, tin một cách mù quáng. Điều đó khiến ngay cả nhiều Kitô hữu đôi khi cũng đâm bực mình, có lúc mặc cảm trước kẻ ngoại đạo, cảm thấy như Thiên Chúa áp bức tự do của những ai theo Người, không cho Kitô hữu suy nghĩ tìm hiểu.

Trước hết phải nói ngay: tin là điều bình thường trong cuộc sống. Lúc nhỏ chúng ta tin cha mẹ, bắt đầu đi học chúng ta tin thầy giáo, đau bệnh chúng ta tin bác sĩ… Tin những gì họ nói với chúng ta. Có hai lý do để chúng ta tin cha mẹ, thầy giáo, bác sĩ… Một là vì họ thương mến hay ít nhất tử tế đối với chúng ta, hai là vì họ thành thật, nói cho ta điều họ nghĩ rằng mình biết hay làm cho ta điều họ nghĩ rằng mình thạo, hoặc ít nhất chúng ta cho là như vậy. Khi lớn lên hoặc với thời gian, chúng ta sẽ kiểm chứng những gì họ đã nói và làm, vì có khi họ đã sai lầm hay đã lừa gạt (chuyện các thần y dổm bị vạch mặt là một ví dụ).

Hiểu biết sự thật

Điều đó đặt chúng ta trước một vấn đề quan trọng của cuộc sống, đó là vấn đề hiểu biết sự thật. Có mấy loại sự thật? Có mấy cách hiểu biết? Cái gì chứng minh cho loại sự thật đó? Hay nói cách khác, chúng ta hiểu biết sự thật dựa trên bằng chứng nào?

1- Thưa trước hết, chúng ta biết bằng giác quan, ngũ quan : mắt thấy, tay sờ, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm. Cách hiểu biết này có đối tượng là vật chất, thực tại vật chất, những gì liên quan tới thế giới hữu hình chung quanh chúng ta. Đây là lãnh vực mà người ta gọi là khoa học, chuyên khám phá và mô tả bản tính mọi loài, để tìm ra định luật trong vật thể, sự thật của vật thể. Dĩ nhiên điều này đòi hỏi ta phải có ngũ quan tốt và máy móc tốt. Chuyện nhiều thầy bói mù sờ voi là một ví dụ minh họa. Bằng chứng ở đây được gọi là vật chứng. Có vật chứng thì hẳn biết rõ, có vật chứng thì phải chấp nhận. Cũng xin lưu ý rằng khoa học không bao giờ ra khỏi giới hạn này cả, nên tự nó chẳng bênh cũng chẳng chống thuyết vô thần hay thuyết hữu thần. Và ai cho rằng khoa học sẽ giúp giải thích mọi sự (ngoài cả thế giới vật chất) và giúp giải quyết mọi vấn đề là sa vào một ảo tưởng ngông cuồng, vĩ đại.

2- Cách biết thứ hai là biết bằng lý luận, nghĩa là bằng đầu óc suy nghĩ, tìm ra sự liên hệ giữa nhiều thực tại, dựa trên một vài nguyên tắc cơ bản, chẳng hạn nguyên tắc nhân quả (có quả tức phải có nhân, có tác phẩm ắt phải có tác giả…)… Và đây là lãnh vực mà người ta gọi là triết học, chuyên tìm hiểu và giải thích mối liên hệ giữa những hữu thể, những hiện tượng, hoặc đi từ cái mình thấy đến cái mình không thấy, để rút ra một kết luận. Bằng chứng ở đây được gọi là lý chứng. Ví dụ thấy tác phẩm biết có tác giả; thấy đồng hồ biết có thợ làm đồng hồ; thấy tạo vật tốt đẹp biết có Tạo hóa tài ba; thấy định luật trong trời đất và trong lương tâm thì biết có Đấng lập luật, lý luận ra có Đấng lập luật; thấy nơi loài người có sự hiểu biết bao la, vượt thời gian không gian, có trái tim vĩ đại, yêu người đến độ hy sinh chính mình, thì biết có hồn thiêng, lý luận ra rằng có hồn thiêng. Chưa cần đặt vấn đề tin ở đây, như nhiều giáo lý viên hay hạch hỏi giáo lý sinh rằng : “Các em tin có Chúa không, tin có linh hồn không?” Lý luận thì biết là có, cần gì phải tin rằng có. Người lương cũng biết có hồn thiêng, có Ông Trời mà ! Điều kiện cần ở đây là có một lý trí lành mạnh và lương tâm trong sáng. Đừng như kẻ duy vật vô thần, tiên thiên (=ngay từ đầu) phủ nhận Thiên Chúa rồi nói : tạo vật tự nhiên chuyển động, tự mình biến hóa, chẳng cần có Trời làm ra, hơn nữa chẳng thấy Ổng đâu cả ! Họ đánh đồng, lẫn lộn mô tả với giải thích.

Một ví dụ khác : Làm sao biết sách Tin Mừng nói thật? Dĩ nhiên là không thể dựa vào vật chứng. Có đâu mà dựa ! Nhưng nhờ lịch sử, chúng ta biết sách Tin Mừng đã được viết bởi các Tông đồ và môn đệ Đức Giêsu, tức những người đã thấy Chúa. Khi họ khởi thảo thì vẫn còn sống rất nhiều người từng nghe và thấy Chúa giảng dạy, khổ nạn, phục sinh. Các sách Tin Mừng lại được viết giữa một cộng đoàn có tổ chức, có kỷ luật (Giáo hội sơ khai). Những điều ấy cho thấy là không thể viết thêm, viết bậy, viết bịa. Các Tông đồ và môn đệ Chúa lại không trục lợi nhờ những điều lạ lùng kỳ diệu trong Tin Mừng, hay là nhờ tổ chức các cộng đoàn Kitô hữu. Trái lại các ngài đã bỏ mọi sự, chịu gian khổ, vượt chông gai, đi khắp nơi rao giảng nội dung Tin Mừng, cuối cùng lấy sinh mạng để làm chứng cho những gì mình đã thấy, đã ghi, đã truyền lại. Và rồi, từ nhóm nhỏ các ngài, một Giáo hội đã khai sinh, lớn lên và phát triển khắp hoàn cầu như ta thấy hôm nay. Như thế, nhờ cách lý luận vừa đưa ra, tức là nhờ lý chứng, chúng ta biết sách Tin Mừng nói thật.

3- Có cách biết thứ ba, sâu xa hơn, liên quan đến tâm linh, tinh thần, đến các thực tại tâm linh, các hữu thể tinh thần. Tôi chỉ biết người khác nghĩ gì, cảm gì khi chính họ tỏ cho tôi biết. Vì những tư tưởng, tình cảm nằm trong linh hồn : trong trái tim, trong óc não, không thể biết bằng giác quan, bằng dụng cụ khoa học như điện tâm đồ (electrocardiogram), điện não đồ (electroencephalogram) vốn chỉ cho biết tim hay não hoạt động nhiều hay ít, mạnh hay nhẹ thôi, hoặc là bằng lý luận, suy diễn, mà chỉ biết được nhờ đương sự đích thân bày tỏ, còn người nghe chỉ có việc tin vào. Nhưng chỉ có sự bày tỏ lòng mình với hai điều kiện : bản thân người thổ lộ cảm nghĩ đúng đắn và chân thành yêu mến kẻ được thổ lộ. Thông thường, đó là khi bạn bè tâm sự với nhau. Sâu xa hơn, khi vợ chồng bày tỏ ý tình cho nhau. Cao hơn nữa, đó là việc những tín đồ có cảm nghiệm tâm linh đích thực với Đấng Tuyệt đối và rồi nói lên cho người khác hay. Bằng chứng ở đây được gọi là nhân chứng, xuất phát từ chứng nhân. Dĩ nhiên chứng nhân cũng có thể là người (hay nhiều người) duy nhất chứng kiến một sự việc và rồi kể lại, nhưng chứng từ này không phải là vấn đề tâm linh, kinh nghiệm tâm linh (tư tưởng, tình cảm).

Nhân chứng kinh nghiệm tâm linh càng mang tính thuyết phục khi được củng cố bằng cuộc sống trở nên đạo hạnh nhờ đó và nhất là bằng cái chết cam chịu anh dũng vì đó. Trong Kitô giáo, đấy là cảm nghiệm thần bí (gặp gỡ, giao tiếp với Thiên Chúa cách sống động trong tâm hồn) mà ta thấy nơi ông Môsê, nơi vua Đavít, nơi các ngôn sứ Cựu Ước... Sang thời Tân Ước, nơi Đức Mẹ, Thánh Giuse, Thánh Gioan Tẩy giả, các Tông đồ và nhiều môn đệ Chúa. Trong lịch sử Giáo hội thì là các hiển thánh, nhất là những vị đã được ban cho ơn thần nghiệm và những tín hữu có đời sống đức tin sâu đậm. Tất cả họ đều tiếp xúc với thế giới tinh thần tuyệt đối là chính Thiên Chúa và đã được Người bày tỏ (tiếng chuyên môn gọi là mạc khải) cho nhiều điều. Các ngài đã tin Thiên Chúa rồi tỏ lộ kinh nghiệm ấy lại cho chúng ta, để chúng ta tin vào các ngài và từ đó tin vào Thiên Chúa. Tất cả các ngài đã củng cố chứng từ của mình bằng cuộc sống thánh thiện, bằng gian khổ triền miên và phần lớn bằng cái chết anh dũng. Đó là lãnh vực mà người ta gọi là thần học.

Nhưng chứng nhân số một chính là Đấng mà Tin mừng Gioan 1,18 đã nói : “Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.” Chính Chúa Giêsu cũng xác nhận như thế với các Tông đồ trong Diễn từ giã biệt : “Tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15). Rồi để làm chứng cho lời mình nói là chân thật, Chúa đã chịu chết đau khổ. Và cũng để làm chứng cho lời mình nói là hữu hiệu, Chúa đã phục sinh vinh quang.

Vậy Chúa Giêsu đã bày tỏ những gì từ Thiên Chúa, mạc khải những gì cho chúng ta? Thưa đó là những điều mà giáo lý gọi là “mầu nhiệm.” Trên hết là mầu nhiệm một Chúa ba Ngôi, tiếp đến là mầu nhiệm Nhập thể (Ngôi Con làm người), mầu nhiệm Chúa khổ nạn phục sinh, mầu nhiệm Giáo hội như Thân thể Đức Kitô, mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm Đức Mẹ đồng trinh…. Như thế, theo những gì nói trên kia, có thể cho rằng các mầu nhiệm chính là những nỗi lòng của Thiên Chúa, những tâm sự về gia đình Thiên Chúa mà Ngôi Con bày tỏ với loài người, như giữa bạn bè với nhau; vì thế Chúa Giêsu đã nói : “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15). Đó cũng là những tâm sự mà Chúa Kitô ngỏ với Giáo hội, như giữa vợ chồng. Ta chẳng nhớ Chúa Giêsu tự gọi mình là Hôn phu và Giáo hội là Hôn thê sao? Và mỗi một tâm hồn tín hữu chẳng được gọi là Bạn tình của Chúa Kitô sao?

Dĩ nhiên những gì Ngôi Con mạc khải về Thiên Chúa thì thâm sâu, khó hiểu. Chuyện đó chẳng có chi lạ. Ngay cả những điều thuộc thế giới, vũ trụ hữu hình thì cũng đã thâm sâu, khoa học tới nay vẫn chưa khám phá ra hết, nên được gọi là bí nhiệm. Những gì ở trong tâm hồn con người càng thâm sâu hơn, vợ chồng với nhau cả đời cũng chưa chắc đã hiểu lòng nhau, bạn bè lâu năm tri kỷ cũng chưa hẳn đã thấu tâm nhau, vì thế mà triết học hiện sinh gọi tâm hồn mỗi người là một huyền nhiệm. Huống chi là những điều thuộc về tâm lòng, thế giới Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa không mạc khải các mầu nhiệm để thách thức óc não, đánh đố suy nghĩ của nhân loài. Nghĩ như thế là tội cho Người quá ! “Mầu nhiệm chẳng phải là một bức tường cho trí tuệ bể nát khi đụng vào, mà là một đại dương trong đó trí tuệ bị mất hút luôn” (Gustave Thibon). Một đại dương tình yêu bao la, một nỗi lòng thiết tha sâu thẳm.

Quả thế, mầu nhiệm Ba Ngôi cho chúng ta thấy Thiên Chúa của Kitô giáo là Thiên Chúa độc nhất, nhưng vì Người là Tình Yêu nên có Ba Ngôi. Người là Ba Ngôi, nhưng vì là Tình yêu, nên đã hợp nhất thành một Thiên Chúa. Và tình yêu đó tràn ra qua việc Người dựng nên muôn vật hữu hình và vô hình. Mầu nhiệm Nhập thể cho thấy Thiên Chúa đã hóa nên người phàm để ở với nhân loại và để cứu chuộc nhân loại, như đòi hỏi của tình yêu nơi Người, là không để tạo vật của Người bơ vơ trên cõi thế, khốn đốn vì tự do và đi vào cõi hư vô tuyệt diệt. Mầu nhiệm Giáo hội cho thấy Thiên Chúa muốn kết hợp tất cả thụ tạo hữu hình và vô hình (từ thiên thần đến loài người và muôn vật) trong một Thân Thể vĩ đại mà Đức Kitô phục sinh là đầu và mọi thụ tạo khác là thành phần, là chi thể, để hết thảy trở về với Thiên Chúa, Nguồn gốc và Cùng đích, như mong ước vĩ đại của tình yêu là tất cả nên một. Mầu nhiệm Thánh Thể cho thấy Chúa Kitô Phục sinh ở với chúng ta mọi nơi và mọi lúc cách hữu hình nhờ Mình Máu Người. Mình Máu ấy duy trì nơi ta sự sống thần linh, liên kết chúng ta với Thiên Chúa và chúng ta với nhau, để từ đó xây dựng nên Thân Thể mầu nhiệm của Người. Đó chẳng phải là bản chất của tình yêu hay sao? Các mầu nhiệm khác cũng mang ý nghĩa tương tự…

Kết luận:

Như thế, sự hiểu biết nhờ tin vào mạc khải từ lòng con người, và đặc biệt trong Kitô giáo, nhờ tin vào mạc khải từ lòng Thiên Chúa, chính là kiểu hiểu biết mang tính sâu xa nhất, nhân bản nhất, vì có thể giúp tạo ra ý nghĩa cho kiếp sống, hướng đi cho cuộc đời. Kitô hữu hạnh phúc khi tin vào Thiên Chúa vì Người không sai lầm cũng chẳng lừa gạt chúng ta. Những gì Người mạc khải cho chúng ta xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa, có nội dung: Thiên Chúa là Tình Yêu, một sự thật cao vời, bao trùm mọi sự thật.

Trong Tân Ước, có câu chuyện tiêu biểu là chuyện Tông đồ Tôma với niềm tin vào việc Chúa Kitô sống lại (Ga 20,19-31). Chúng ta thấy vị Tông đồ này đã lần lượt trải qua 3 thứ hiểu biết nói trên với 3 bằng chứng: 1- thấy Chúa liền nhận ra vị Thầy mình đã sống với suốt 3 năm. 2- nhìn vết thương ở bàn tay và cạnh sườn Thầy, suy ra rằng Thầy đã thực sự sống lại. 3- được sự soi sáng, được ơn mạc khải (như Phêrô ở Mt 16,17), cuối cùng tin nhận và tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).

Lm Phêrô Phan Văn Lợi, Giáo phận Huế.
19-07-2021. Cập nhật 27-04-2025