1. Đức Giáo Hoàng Lêô XIV sẽ phong thánh cho 7 vị thánh vào ngày 19 tháng 10

Đức Giáo Hoàng Lêô XIV sẽ phong thánh cho bảy vị chân phước vào ngày 19 tháng 10, bao gồm hai người Venezuela: José Gregorio Hernández Cisneros, được coi là “bác sĩ của người nghèo” và María del Carmen Rendiles Martínez, một nữ tu và là người sáng lập Dòng Nữ nô lệ của Chúa Giêsu.

Việc tuyên thánh đã được Văn phòng Báo chí Tòa thánh xác nhận vào ngày 13 tháng 6 sau quyết định của Đức Giáo Hoàng trong công nghị đầu tiên của triều Giáo Hoàng của ngài.

Ngoài Hernández và Rendiles, những người được tôn kính ở Mỹ Latinh, những vị chân phước sẽ được tuyên thánh vào tháng 10 là: Ignazio Choukrallah Maloyan, một giám mục người Armenia và là vị tử đạo bị giết năm 1915 trong cuộc diệt chủng của Ottoman; Peter To Rot, một giáo lý viên giáo dân đến từ Papua New Guinea, bị tử đạo trong thời kỳ Nhật Bản xâm lược trong Thế chiến II; Vincenza Maria Poloni, người sáng lập Dòng Nữ tu Đức Mẹ Thương Xót Verona; Maria Troncatti, một nhà truyền giáo người Ý thuộc dòng Salêdiêng được biết đến với công việc của bà trong số những người bản địa Shuar ở Ecuador; và Bartolo Longo, một luật sư người Ý, cựu linh mục Satan đã cải sang Công Giáo, người thúc đẩy việc đọc kinh Mân Côi và là người sáng lập Đền Đức Mẹ Mân Côi Pompeii.

Công nghị này được tổ chức tại Điện Tông tòa của Vatican, ban đầu được Đức Thánh Cha Phanxicô triệu tập vào cuối tháng 2 khi ngài đang nằm bệnh viện, mặc dù không có ngày cụ thể nào được ấn định vào thời điểm đó.

Trong cuộc gặp với các Hồng Y, Đức Lêô XIV cũng đã ra sắc lệnh rằng Chân phước Pier Giorgio Frassati cũng sẽ được phong thánh cùng với Chân phước Carlo Acutis vào ngày 7 tháng 9. Đây sẽ là buổi lễ phong thánh đầu tiên do tân giáo hoàng chủ trì.


Source:Catholic News Agency

2. Đức Hồng Y Tehran kêu gọi đàm phán Iran - Israel; “tấn công phủ đầu” sẽ không mang lại hòa bình

Đức Hồng Y Dominique Joseph Mathieu, Tổng giám mục Tehran-Ispahan của Cộng đồng Latinh, viết trên AsiaNews rằng: 'Chúng tôi rất tiếc khi chứng kiến trong những giờ qua, một lần nữa, hòa bình được tìm kiếm thông qua các cuộc tấn công phòng ngừa thay vì cam kết đối thoại quanh bàn đàm phán'.

Bình luận của vị Hồng Y được đưa ra sau cuộc tấn công vào rạng sáng Thứ Sáu, 13 Tháng Sáu, của Israel vào Iran và phản ứng tiếp theo của Tehran. Nhà nước Do Thái tuyên bố đã tấn công các địa điểm hạt nhân của Iran, cũng như các nhân vật quân sự và khoa học hàng đầu, bao gồm cả nhà lãnh đạo Lực lượng Vệ binh Cách mạng, Hossein Salami, như một phần của Chiến dịch “Rising Lion” hay “Sư Tử Trỗi Dậy”.

Tehran đáp trả bằng cách phóng một trăm máy bay điều khiển từ xa vào nhà nước Do Thái. Đức Hồng Y nhấn mạnh rằng “Chúng tôi cầu nguyện rằng hòa bình thông qua đối thoại dựa trên sự đồng thuận sẽ thắng thế. Cầu xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn tiến trình này”, khi các cuộc đàm phán tại Oman giữa Hoa Kỳ và Iran về một thỏa thuận hạt nhân dường như đang chững lại. Trên thực tế, sáng Thứ Bẩy, 14 Tháng Sáu, Tehran đã tuyên bố rằng họ sẽ không tham gia vòng đàm phán thứ sáu.

Đức Hồng Y Mathieu vô cùng lo ngại vào thời điểm căng thẳng lớn trong khu vực và toàn cầu này, bởi vì sự leo thang đáng sợ có nguy cơ kéo toàn bộ Trung Đông vào một cuộc xung đột tàn khốc dường như đang trở thành hiện thực.

Theo kinh nghiệm các đợt bùng phát xung đột là điềm rất bất lành cho cộng đồng Kitô Hữu Iran. Nhà cầm quyền độc tài Iran thường lo ngại về các âm mưu lật đổ chính quyền để quay lại chế độ dân chủ. Cho nên, các đợt bùng phát xung đột luôn luôn kéo theo các cuộc đàn áp. Cộng đồng Kitô Hữu Iran quá nhỏ bé để có thể thực sự là mối lo lắng của chế độ. Tuy nhiên, các viên chức nhà nước có tình cảm bài Kitô thường lợi dụng các dịp này để bách hại Kitô Hữu. Vì thế, mỗi dịp như vậy, dân số Kitô Hữu sụt giảm rất mạnh.

AsiaNews gần đây đã gặp Tổng giám mục Latinh của Tehran-Isfahan tại Rôma, sau cuộc bầu cử giáo hoàng mới. Ngài là tổng giám mục đầu tiên của thủ đô Iran tham gia Cơ Mật Viện Hồng Y.

Nói về “thánh giá và hy vọng”, Đức Hồng Y nhấn mạnh đến hai đặc điểm riêng biệt của cộng đồng Kitô giáo tại Iran, nơi có “mối liên hệ chặt chẽ” với Đức Giáo Hoàng Phanxicô, người qua đời “là nỗi buồn sâu sắc” và hiện đang hướng về người kế nhiệm mình là Đức Lêô XIV với lòng tin tưởng.

'Trong số những người Công Giáo Iran,' ngài nói tiếp, 'có một niềm hy vọng lớn lao, kết hợp với sự mong đợi đáng kinh ngạc.' Năm Thánh hiện tại cũng đang được sống theo viễn cảnh này, 'đó là lý do tại sao chúng tôi có thể nói rằng chúng tôi tràn đầy hy vọng.'

Theo ước tính chính thức, Iran có khoảng 22.000 người Công Giáo (trong tổng số khoảng 500.000 người theo Kitô giáo) trong một quốc gia có gần 84 triệu dân, phần lớn, đến 90%, là người Hồi giáo dòng Shiite, người Sunni chỉ chiếm hơn 5%. Trong số các Giáo hội khác nhau có người Chanđê, người Armenia và cộng đồng nghi lễ La tinh, ngoài người Âu Châu và người Mỹ Latinh.

Theo Hiến pháp Iran (điều 13), các Kitô hữu, đạo Zoroaster và đạo Do Thái được tự do thờ phượng “với sự tôn trọng” đối với các luật lệ lấy cảm hứng từ đức tin Hồi giáo; hơn nữa, các Kitô hữu có quyền có đại diện trong Quốc hội (Majlis).

Đức Hồng Y Mathieu nhắc lại tầm quan trọng của triều đại Đức Thánh Cha Phanxicô, bao gồm cả mối quan hệ với thế giới Hồi giáo và chính quyền Iran, mô tả ngài là vị giáo hoàng đã “mở ra nhiều cánh cửa” và giờ đây “đã đến lúc tổ chức không gian đằng sau những cánh cửa này”.

Vị Hồng Y nói: “Trong cuộc bầu cử, Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn chúng ta đi đúng đường, bởi vì ngài có thể là người có khả năng làm như vậy.”

Chủ đề về cánh cửa, cùng với chủ đề về lời cầu nguyện, thường xuyên xuất hiện trong suy nghĩ của Đức Tổng Giám Mục Tehran-Ispahan, biểu tượng của một thực tại đầy mâu thuẫn, nơi không phải lúc nào cũng dễ dàng để tuyên xưng đức tin hoặc bước qua ngưỡng cửa nhà thờ.

Ngài giải thích rằng: 'Những gì người Công Giáo Iran mong đợi ở Đức Giáo Hoàng là ngài phải là người cầu nguyện' và biết cách 'dành thời gian cho họ'.

Thực tế của đất nước cho thấy rằng 'nhiều vấn đề không thể giải quyết được trong tương lai ngoại trừ thông qua cầu nguyện', đặc biệt là trong giai đoạn đầy kịch tính như thế này, khi mà lý lẽ về vũ khí dường như lấn át đối thoại, như Đức Phanxicô đã từng nói và bây giờ Đức Giáo Hoàng Lêô XIV cũng nêu bật như vậy.

Vào thời điểm khó khăn và bất ổn cho tương lai của cộng đồng Kitô giáo tại Iran, Đức Hồng Y đã suy ngẫm về quyết định bổ nhiệm ngài làm nhà lãnh đạo tổng giáo phận thủ đô và sau đó nâng ông lên hàng Hồng Y.

Ngài giải thích: 'Đó là một nỗ lực hòa nhập thậm chí còn rộng hơn, “ad extra”, mà chính Đức Thánh Cha Phanxicô đã bày tỏ vào tháng 11 năm ngoái khi ngài gặp một phái đoàn các nhà lãnh đạo Hồi giáo Shiite từ Qom' để tham dự một hội nghị chuyên đề về đối thoại liên tôn.

Đức Hồng Y Mathieu nhớ lại: 'Đức Cố Giáo Hoàng Phanxicô đã nói với họ rằng tôi đã gửi một “tu sĩ tốt lành” không chống lại đất nước nhưng có nhiệm vụ chính là hội nhập, bao gồm và liên lạc với quốc gia ở nhiều cấp độ khác nhau... một biểu hiện của tinh thần của tiến trình công đồng.'

Nga, Trung Quốc và Iran là những nơi mà vì nhiều lý do, một vị giáo hoàng vẫn chưa thể đến thăm, nhưng “điều còn lại là mong muốn vươn ra, để duy trì những gì tích cực trong mối quan hệ của chúng ta với mọi người” bất kể đức tin của họ và “công nhận sự phong phú của một nền văn hóa” theo quan điểm hòa bình.


Source:Asia News

3. Toàn văn Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế giới Người nghèo lần thứ chín

Ngày Thế giới vì Người nghèo lần thứ chín, sẽ được tổ chức vào Chúa Nhật ngày 16 tháng 11 năm 2025. Để chuẩn bị cho dịp này, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã công bố sứ điệp của ngài vào ngày Thứ Sáu, 13 Tháng Sáu.

Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Thụy Khanh

Chúa là niềm hy vọng của con (x. Tv 71:5)

1. “Lạy Chúa, Chúa là niềm hy vọng của con” (Tv 71:5). Những lời này tuôn trào từ một trái tim nặng trĩu những gian truân nghiêm trọng: tác giả Thánh Vịnh thốt lên “Chúa đã cho con thấy biết bao gian truân và khốn khổ” (câu 20). Đồng thời, trái tim của Vịnh Gia vẫn rộng mở và tin tưởng; kiên định trong đức tin, ông nhìn nhận có sự hỗ trợ của Thiên Chúa, Đấng mà ông gọi là “núi đá cho con ẩn náu, đồn lũy kiên cố” (câu 3). Do đó, lòng tin tưởng bền bỉ của ông rằng hy vọng nơi Thiên Chúa không bao giờ làm ông thất vọng: “Lạy Chúa, con ẩn náu bên Chúa; con sẽ không bao giờ phải hổ thẹn” (câu 1).

Giữa những thử thách của cuộc sống, hy vọng của chúng ta được truyền cảm hứng từ sự chắc chắn và an ủi của tình yêu Thiên Chúa, được đổ vào lòng chúng ta bởi Chúa Thánh Thần. Niềm hy vọng đó không làm chúng ta thất vọng (x. Rm 5:5). Vì vậy, Thánh Phaolô có thể viết cho Timôthê: “Vì mục đích này, chúng ta phải vất vả và chiến đấu, vì chúng ta đặt hy vọng vào Thiên Chúa hằng sống” (1 Tim 4:10). Thiên Chúa hằng sống thực sự là “Thiên Chúa của hy vọng” (Rm 15:13), và Chúa Kitô, qua cái chết và sự phục sinh của Người, đã trở thành “hy vọng của chúng ta”(1 Tim 1:1). Chúng ta không bao giờ được quên rằng chúng ta đã được cứu trong hy vọng này, và cần phải bám chặt vào đó.

2. Người nghèo có thể là chứng nhân cho một niềm hy vọng mạnh mẽ và kiên định, chính xác là vì họ hiện thân cho niềm hy vọng đó giữa sự bất ổn, nghèo đói, bấp bênh và bị gạt ra ngoài lề. Họ không thể dựa vào sự an toàn của quyền lực và của cải; ngược lại, họ phải chịu sự thương xót của những người quyền thế và thường là nạn nhân của họ. Niềm hy vọng của người nghèo nhất thiết phải được tìm kiếm ở nơi khác. Khi nhận ra rằng Thiên Chúa là niềm hy vọng đầu tiên và duy nhất của chúng ta, chúng ta cũng chuyển từ những hy vọng thoáng qua sang một niềm hy vọng lâu dài. Một khi chúng ta mong muốn Thiên Chúa đồng hành với chúng ta trên hành trình cuộc sống, của cải vật chất trở nên tương đối, vì chúng ta khám phá ra kho báu thực sự mà chúng ta cần. Những lời mà Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ của Người vẫn mạnh mẽ và rõ ràng: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi.” (Mt 6:19-20).

3. Hình thức nghèo đói nghiêm trọng nhất là không biết Thiên Chúa. Như Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã viết trong Tông huấn Evangelii Gaudium – Niềm Vui Phúc Âm: “Sự phân biệt đối xử tệ hại nhất mà người nghèo phải chịu là thiếu sự chăm sóc về mặt tinh thần. Phần lớn người nghèo có sự cởi mở đặc biệt với đức tin; họ cần Thiên Chúa và chúng ta không được quên trao cho họ tình bạn, phước lành, lời của Người, việc cử hành các bí tích và một hành trình tăng trưởng và trưởng thành trong đức tin” (Số 2000). Ở đây chúng ta thấy một nhận thức cơ bản và thiết yếu về cách chúng ta có thể tìm thấy kho tàng của mình nơi Thiên Chúa. Như Thánh Tông đồ Gioan nhấn mạnh: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, thì người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20).

Đây là một quy luật của đức tin và là bí quyết của hy vọng: tất cả của cải trên trái đất này, thực tại vật chất, thú vui thế gian, sự thịnh vượng kinh tế, dù quan trọng đến đâu, cũng không thể mang lại hạnh phúc cho trái tim chúng ta. Sự giàu có thường làm chúng ta thất vọng và có thể dẫn đến những tình huống nghèo đói bi thảm — trên hết là sự nghèo đói phát sinh từ việc không nhận ra nhu cầu của chúng ta đối với Chúa và từ nỗ lực sống mà không có Người. Một câu nói của Thánh Augustinô hiện lên trong tâm trí tôi: “Hãy để tất cả hy vọng của anh chị em ở nơi Chúa: hãy cảm thấy anh chị em cần Người, và để Người lấp đầy nhu cầu đó. Nếu không có Người, bất cứ thứ gì anh chị em sở hữu sẽ chỉ khiến anh chị em trở nên trống rỗng hơn mà thôi” (Enarr. trong Ps., 85:3).

4. Lời Chúa nói với chúng ta rằng niềm hy vọng Kitô giáo là sự chắc chắn ở mọi bước đi của cuộc hành trình cuộc sống, vì nó không phụ thuộc vào sức mạnh con người của chúng ta mà phụ thuộc vào lời hứa của Thiên Chúa, Đấng luôn thành tín. Vì lý do này, ngay từ đầu, các Kitô hữu đã đồng nhất hy vọng với biểu tượng của mỏ neo, mang lại sự ổn định và an toàn. Niềm hy vọng Kitô giáo giống như một mỏ neo giữ chặt trái tim chúng ta vào lời hứa của Chúa Giêsu, Đấng đã cứu chúng ta bằng cái chết và sự phục sinh của Người và sẽ lại đến giữa chúng ta. Niềm hy vọng này tiếp tục hướng chúng ta đến “trời mới” và “đất mới” (2 Pr 3:13), như là chân trời thực sự của sự tồn tại của chúng ta, nơi mọi cuộc sống sẽ tìm thấy ý nghĩa đích thực của nó, vì quê hương thực sự của chúng ta là ở trên trời (x. Phil 3:20).

Do đó, thành phố của Thiên Chúa thúc đẩy chúng ta cải thiện các thành phố của con người. Các thành phố của chúng ta phải bắt đầu giống như của Người. Niềm hy vọng, được duy trì bởi tình yêu của Thiên Chúa đổ vào lòng chúng ta qua Chúa Thánh Thần (x. Rm 5:5), biến trái tim con người thành mảnh đất màu mỡ nơi tình bác ái đối với sự sống của thế giới có thể nở hoa. Truyền thống của Giáo hội luôn nhấn mạnh đến mối quan hệ tuần hoàn giữa ba nhân đức đối thần là đức tin, đức cậy và đức mến. Đức cậy sinh ra từ đức tin, đức tin nuôi dưỡng và duy trì đức cậy trên nền tảng đức mến, là mẹ của mọi nhân đức. Tất cả chúng ta đều cần đức mến, ở đây và bây giờ. Đức mến không chỉ là một lời hứa; đó là một thực tế hiện tại cần được đón nhận với niềm vui và trách nhiệm. Đức mến thu hút chúng ta và hướng dẫn các quyết định của chúng ta hướng tới lợi ích chung. Ngược lại, những người thiếu đức mến không chỉ thiếu đức tin và đức cậy; họ còn cướp mất hy vọng của những người lân cận.

5. Lời kêu gọi hy vọng trong Kinh thánh do đó bao hàm nghĩa vụ gánh vác trách nhiệm của chúng ta trong lịch sử, không do dự. Trên thực tế, bác ái “là điều răn xã hội lớn nhất” (Giáo lý Công Giáo, số 1889). Nghèo đói có những nguyên nhân mang tính cấu trúc cần phải được giải quyết và loại bỏ. Trong khi đó, mỗi người chúng ta được kêu gọi đưa ra những dấu hiệu hy vọng mới để làm chứng cho lòng bác ái của Kitô giáo, giống như nhiều vị thánh đã làm trong nhiều thế kỷ. Ví dụ, bệnh viện và trường học là những tổ chức được thành lập để tiếp cận những người dễ bị tổn thương và bị thiệt thòi nhất. Những tổ chức này nên là một phần trong chính sách công của mọi quốc gia, nhưng chiến tranh và bất bình đẳng thường ngăn cản điều này xảy ra. Ngày nay, những dấu hiệu hy vọng ngày càng được tìm thấy trong các viện dưỡng lão, cộng đồng dành cho trẻ vị thành niên, các trung tâm lắng nghe và chấp nhận, bếp ăn bác ái, nhà tạm trú cho người vô gia cư và trường học thu chi phí thấp. Có bao nhiêu dấu hiệu hy vọng thầm lặng này thường bị bỏ qua nhưng lại rất quan trọng để gạt bỏ sự thờ ơ của chúng ta và truyền cảm hứng cho những người khác tham gia vào nhiều hình thức công tác tình nguyện khác nhau!

Giáo hội không thể sao nhãng người nghèo, nhưng phải xem họ là những anh chị em yêu dấu của chúng ta, vì bằng cuộc sống, lời nói và sự khôn ngoan của họ, họ giúp chúng ta tiếp xúc với chân lý của Phúc âm. Việc cử hành Ngày Thế giới Người nghèo có nghĩa là nhắc nhở các cộng đồng của chúng ta rằng người nghèo là trọng tâm của mọi hoạt động mục vụ của chúng ta. Điều này không chỉ đúng với công việc bác ái của Giáo hội, mà còn đúng với sứ điệp mà Giáo hội tôn vinh và công bố. Thiên Chúa đã gánh lấy sự nghèo khó của họ để làm giàu cho chúng ta qua tiếng nói, câu chuyện và khuôn mặt của họ. Mọi hình thức nghèo đói, không có ngoại lệ, đều kêu gọi chúng ta trải nghiệm Phúc âm một cách cụ thể và đưa ra những dấu chỉ hy vọng hiệu quả.

6. Đây chính là lời mời gọi mà lễ kỷ niệm Năm Thánh này gửi đến chúng ta. Không phải ngẫu nhiên mà Ngày Thế giới Người nghèo được cử hành vào cuối năm ân sủng này. Khi Cửa Thánh đóng lại, chúng ta phải trân trọng và chia sẻ với người khác những món quà thiêng liêng được ban cho chúng ta trong suốt năm cầu nguyện, hoán cải và làm chứng này. Người nghèo không phải là đối tượng được chúng ta chăm sóc mục vụ, mà là những chủ thể sáng tạo thách thức chúng ta tìm ra những cách mới để sống Phúc âm ngày nay. Trước những hình thức bần cùng hóa mới, chúng ta có nguy cơ trở nên chai đá và cam chịu. Mỗi ngày, chúng ta đều gặp những người nghèo hoặc bần cùng. Chính chúng ta cũng có thể có ít hơn trước và đang mất đi những gì từng có vẻ an toàn: một ngôi nhà, đủ thức ăn cho mỗi ngày, tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe và giáo dục tốt, thông tin, tự do tôn giáo và tự do ngôn luận.

Trong việc thúc đẩy lợi ích chung này, trách nhiệm xã hội của chúng ta được đặt nền tảng trên hành động sáng tạo của Thiên Chúa, hành động này trao cho mọi người một phần trong các của cải của trái đất. Giống như những của cải đó, thành quả lao động của con người phải được tiếp cận bình đẳng với tất cả mọi người. Giúp đỡ người nghèo là vấn đề công lý trước khi nói đến vấn đề bác ái. Như Thánh Augustinô đã nhận xét: “Bạn cho người đói bánh mì; nhưng tốt hơn hết là không nên để ai phải đói, để bạn không cần phải cho đi. Bạn cho người trần truồng mặc quần áo, nhưng tốt nhất là tất cả mọi người đều được mặc quần áo và không cần phải cung cấp sự thiếu hụt này” (In I Ioan., 8:5).

Tôi hy vọng rằng Năm Thánh này sẽ khuyến khích việc phát triển các chính sách nhằm chống lại các hình thức nghèo đói cũ và mới, cũng như huy động các sáng kiến mới để hỗ trợ và giúp đỡ những người nghèo nhất trong số những người nghèo. Lao động, giáo dục, nhà ở và y tế là nền tảng của một nền an ninh sẽ không bao giờ đạt được bằng việc sử dụng vũ khí. Tôi bày tỏ lòng biết ơn đối với những sáng kiến đã tồn tại và đối với những nỗ lực được thể hiện hàng ngày trên bình diện quốc tế bởi rất nhiều nam nữ thiện chí.

Chúng ta hãy phó thác mình cho Đức Maria Rất Thánh, Đấng An ủi những người đau khổ, và cùng với Mẹ, chúng ta hãy cất lên bài ca hy vọng khi chúng ta lấy lời của bài Te Deum làm của mình: “Lạy Chúa, chúng con hy vọng nơi Chúa, và chúng con sẽ không bao giờ hy vọng vô ích.”

Từ Vatican, ngày 13 tháng 6 năm 2025, Lễ nhớ Thánh Antôn Padua, Bổn mạng của Người nghèo


Source:Holy See Press Office