3.3.2. Sự Phối Hợp Giữa Các Bình Diện Địa Phương, Khu Vực Và Hoàn Cầu
119. Suy tư đại kết đã góp phần vào việc đánh giá tốt hơn rằng chức vụ của Giám mục Rôma không thể được hiểu một cách tách biệt khỏi một góc nhìn giáo hội học rộng hơn. Khi xem xét quyền tối thượng, nhiều cuộc đối thoại thần học đã lưu ý rằng ba
chiều kích này – cộng đồng, hợp đoàn và cá vị – đều hoạt động trong mọi bình diện của Giáo hội.
a. Tính đồng thời của Giáo hội địa phương và Giáo hội hoàn vũ
120. Một vấn đề quan trọng là mối quan hệ giữa Giáo hội địa phương và Giáo hội hoàn vũ. Nếu nhiều truyền thống Kitô giáo nhấn mạnh việc hiện thực hóa Giáo hội tại địa phương, thì giáo hội học Công Giáo thường nhấn mạnh chiều kích phổ quát, và do đó,thừa tác vụ phổ quát của Giáo hoàng. Tuy nhiên, Lumen gentium khẳng định rằng “các giáo hội đặc thù [được] hình thành theo mô hình của Giáo hội hoàn vũ [Ecclesiæ universalis]”, và rằng chính “trong và từ [in quibus et ex quibus]” các Giáo hội cụ thể mà “Giáo Hội Công Giáo duy nhất” ra đời [una et unica Ecclesia catholica exsistit] (LG 23).
121. Các cuộc đối thoại đại kết đã giúp xem xét tính đồng thời [simultaneity] của các chiều kích này. Tài liệu đầu tiên của cuộc đối thoại quốc tế Chính thống giáo–Công Giáo nêu rõ: “Vì Chúa Kitô là một cho nhiều người, nên trong Giáo hội là thân thể của Người, một và nhiều, phổ quát và địa phương, tất yếu phải đồng thời với nhau” (O–C 1982, III, 2).
122. Tương tự như vậy, Nhóm công tác chung giữa Hội đồng các Giáo hội Thế giới và Giáo Hội Công Giáo, trong tài liệu Giáo hội: Địa phương và Phổ quát (1990), khẳng định rằng một giáo hội học cánh chung và thần khí “không chỉ định tính ưu tiên duy nhất cho Giáo hội địa phương hoặc phổ quát, mà gợi ý về tính đồng thời của cả hai” (JWG 1990, 22), vì luôn có một “sự phụ thuộc lẫn nhau giữa địa phương và phổ quát trong sự Hiệp thông của các Giáo hội” (id., 35).
123. Tương tự như vậy, cuộc đối thoại Anh giáo-Công Giáo tại Hoa Kỳ cũng đồng ý rằng “giáo hội địa phương và giáo hội hoàn vũ là đồng cấu thành và đồng cố hữu [co-inherent][…] Do đó, Giáo hội vừa địa phương vừa hoàn vũ. Giáo hội địa phương không chỉ là một phân khu của giáo hội hoàn vũ, cũng như giáo hội hoàn vũ không chỉ là tổng hợp của các giáo hội địa phương. Mỗi giáo hội hoàn toàn phụ thuộc lẫn nhau với giáo hội kia” (ARC-USA 1999). Câu hỏi này lại được nêu ra trong cuộc đối thoại quốc tế: “Đối với người Công Giáo, một câu hỏi quan trọng khác liên quan đến thực tại giáo hội của Giáo hội hoàn vũ, được tượng trưng và cấu trúc theo quyền tối thượng của Tòa Rôma. Giáo hội hoàn vũ có ưu tiên về thời gian và hữu thể học hơn các giáo hội địa phương và các tổ chức khu vực hay không, với các tổ chức sau được bắt nguồn và phụ thuộc vào thực tại có trước của giáo hội phổ quát? Hay giáo hội phổ quát và giáo hội địa phương nên được xem là xác định lẫn nhau, cùng hiện hữu và nhất thiết phải cùng cố hữu, để Giáo hội phổ quát có trách nhiệm đối với các giáo hội địa phương, và các giáo hội địa phương có trách nhiệm đối với nhau và đối với Giáo hội phổ quát?” (ARCIC 2018, 67, xem thêm 48 và 154).
124. Khi bắt đầu cuộc đối thoại quốc tế với những người theo phái Luther, “phía Luther đã thừa nhận rằng không có giáo hội địa phương nào hiện hữu biệt lập vì đó là biểu hiện của giáo hội phổ quát. Theo nghĩa này, tầm quan trọng của một việc phục vụ thừa tác về hiệp thông của các giáo hội đã được thừa nhận và đồng thời đã đề cập đến vấn đề được những người theo phái Luther nêu ra do họ thiếu một việc phục vụ hiệp nhất hữu hiệu như vậy” (L–C 1972, 66).
125. Tham vấn với Liên minh Tin lành Thế giới, trong tài liệu Giáo hội, Truyền giáo và Mối quan hệ của Koinonia (2002), cũng đã ghi nhận một số biện pháp đồng thuận về sự phụ thuộc lẫn nhau giữa Giáo hội địa phương và Giáo hội hoàn vũ: “Những người Tin lành, giống như những người Công Giáo, nhận ra giá trị của tình hiệp thông trên toàn thế giới, nhưng vì những tiền đề thần học khác nhau và cách giải thích khác nhau về một số đoạn Kinh thánh, họ có quan điểm khác nhau về mối quan hệ giữa giáo hội hoàn vũ và các giáo hội địa phương. Những người Tin lành hiểu rằng ‘giáo hội hoàn vũ’ là tất cả những người ở mọi nơi và trong mọi thời đại tin và tín thác vào Chúa Kitô để được cứu rỗi”. Trong khi thừa nhận rằng Chúa Kitô “muốn thành lập các Giáo hội hữu hình […] chủ yếu là địa phương”, những người Tin lành vẫn khẳng định rằng “các giáo đoàn này có thể tìm kiếm các liên đoàn và liên minh như một phương tiện để phát biểu tính chất phổ quát của bản chất và sứ mệnh của giáo hội” (33).
126. Những suy tư đại kết này đã giúp đạt được sự hiểu biết sâu sắc hơn của Công Giáo về “mối tương quan nội tại” giữa Giáo hội địa phương và Giáo hội hoàn vũ, như được chỉ ra bởi Ủy ban Thần học Quốc tế: “Giáo hội, trong chừng mực là Công Giáo, làm cho phổ quát trở thành địa phương và địa phương trở thành phổ quát” (ITC 2018 59); do đó, Giáo hội địa phương và Giáo hội hoàn vũ là nội tại của nhau. “Mối tương quan nội tại của hai cực này có thể được diễn đạt như cách phổ quát và địa phương hiện diện trong nhau trong Giáo hội của Chúa Kitô. Trong Giáo hội với tư cách là Công Giáo, sự đa dạng không chỉ là sự cùng hiện hữu mà còn là sự gắn kết trong mối tương quan và phụ thuộc lẫn nhau: một sự tương tại [ở trong nhau, perichoresis] giáo hội học trong đó sự hiệp thông ba ngôi nhìn thấy sự phản chiếu giáo hội của mình” (ITC 2018, 60; xem thêm khái niệm “nội tại lẫn nhau” trong Communionis notio [ý niệm hiệp thông], n. 9).
b. Bình diện khu vực
127. Một vấn đề khác được đề cập trong các cuộc đối thoại là tầm quan trọng của bình diện khu vực (còn gọi là siêu địa phương hoặc xuyên địa phương) trong Giáo hội. Công đồng Vatican II thừa nhận rằng chiều kích này bắt nguồn từ ý muốn thần linh, khẳng định rằng “bởi sự quan phòng thần linh, đã xảy ra [Divina autem Providentia factum est] việc nhiều giáo hội, được các tông đồ và những người kế vị thành lập tại nhiều nơi khác nhau, đã theo thời gian hợp nhất thành nhiều nhóm” (LG 23). Nhiều cuộc đối thoại, khi nhận thấy bình diện khu vực là bình diện có liên quan nhất đối với việc thực thi quyền tối thượng trong hầu hết các cộng đồng Kitô giáo và cũng đối với hoạt động truyền giáo của họ, nhấn mạnh đến nhu cầu cân bằng giữa việc thực thi quyền tối thượng ở bình diện khu vực và việc thực hiện quyền tối thượng ở bình diện hoàn cầu. Vấn đề đã trải qua nhiều diễn biến khác nhau và nêu ra các vấn đề khác nhau ở phương Đông và phương Tây.
* Các Giáo hội phương Đông: “Facultatem se secundum propria disciplinas regendi” [khả năng tự quản theo kỷ luật riêng]
128. Tầm quan trọng của bình diện khu vực đã được đề cập trong nhiều cuộc đối thoại với các Giáo hội Chính thống giáo và Chính thống giáo phương Đông. Cuộc đối thoại quốc tế Chính thống giáo-Công Giáo nhấn mạnh tầm quan trọng về mặt giáo hội học của các cấu trúc khu vực ở cả phương Đông và phương Tây, đưa ra một sự song hành nào đó giữa các Tòa Thượng phụ và Hội đồng Giám mục: “Các tòa Thượng phụ mới và các Giáo hội tự chủ đã được thành lập ở phương Đông Kitô giáo, và trong Giáo hội La tinh gần đây đã xuất hiện một mô hình gom các thành nhóm giám mục đặc thù, tức các Hội đồng Giám mục. Về mặt giáo hội học, đây không phải chỉ là các phân khu hành chính: chúng Nói lên tinh thần hiệp thông trong Giáo hội, đồng thời tôn trọng sự đa dạng của các nền văn hóa nhân bản” (O–C 2007, 29).
Cuộc đối thoại Chính thống giáo-Công Giáo Bắc Mỹ đã nêu vấn đề về mối quan hệ giữa quyền tối thượng và các quyền tối thượng khi tuyên bố: “Trong một Giáo hội tái hiệp nhất, sự hiểu biết này về thẩm quyền của giáo hoàng và giám mục, như bổ sung và tăng cường lẫn nhau, sẽ phải được mở rộng để bao gồm các mô hình phức tạp hơn nhiều về sự lãnh đạo địa phương, tối thượng và thượng phụ đã phát triển trong các Giáo hội Đông phương kể từ thời giáo phụ” (O–C US 2010, 7b).
Do đó, nó gợi ý: “Cuối cùng, các cấu trúc thẩm quyền mới, trong đó các mối quan hệ của các giáo chủ địa phương và khu vực được điều chỉnh cụ thể, sẽ cần phải được thiết lập thông qua tham vấn chung, có thể là bởi một công đồng đại kết” (id., 8 d).
Liên quan đến các Giáo hội Đông phương, tài liệu này còn đề xuất rằng trong một Giáo hội hòa giải, “mối quan hệ của [giám mục của Rôma] với các Giáo hội Đông phương và các giám mục của họ […] sẽ phải khác biệt đáng kể so với mối quan hệ hiện được chấp nhận trong Giáo hội La tinh” và nói thêm rằng “các Giáo Hội Công Giáo Đông phương hiện tại sẽ liên hệ với giám mục Rôma theo cùng cách như các Giáo hội Chính thống giáo hiện tại” (id., 7a).
129. Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II và Giáo hoàng Shenouda III đã có thể đồng ý về quan điểm như vậy trong tài liệu chung mà họ đã ký vào năm 1979:
“Sự hiệp nhất mà chúng ta hình dung không có nghĩa là sự hấp thụ của bên này đối với bên kia hoặc sự thống trị của bên này đối với bên kia. Mỗi bên đều có lợi khi giúp nhau sống tốt hơn những ân huệ thích hợp mà mình đã nhận được từ Thánh Linh Thiên Chúa. Sự hiệp nhất giả định rằng các Giáo hội của chúng ta tiếp tục có quyền và quyền tự quản theo truyền thống và kỷ luật riêng của mình” (Nguyên tắc hướng dẫn tìm kiếm Sự hiệp nhất giữa Giáo Hội Công Giáo và Giáo hội Chính thống giáo Copt, 1979 Lời nói đầu 4-5). (24).
130. Các Giáo Hội Công Giáo Đông phương đại diện cho một mô hình cụ thể liên quan đến bình diện khu vực. Là các Giáo hội sui iuris trong sự hiệp thông trọn vẹn với Tòa Rôma, họ duy trì bản sắc phương Đông và quyền tự chủ của mình trong các cấu trúc đồng nghị. Các Giáo hội Chính thống, vì sợ bị sáp nhập và mất quyền tự quản, coi mối quan hệ giữa các Giáo Hội Công Giáo Đông phương và Tòa Rôma là thước đo độ tin cậy đại kết của Giáo Hội Công Giáo. Họ không công nhận mối quan hệ hiện tại của các Giáo Hội Công Giáo Đông phương với Rôma là mô hình cho sự hiệp thông trong tương lai. Tuy nhiên, cần nhớ rằng Công đồng Vatican II đã long trọng công nhận năng lực của các Giáo hội Đông phương để 'tự quản theo kỷ luật của họ [Facultatem se secundum proprias disciplinas regendi] (UR 16). Các tiền đề tín lý và hậu quả thực tế của nguyên tắc này có thể trở thành đối tượng của một sự suy tư đại kết mới.
131. Cuộc đối thoại Chính thống giáo–Công Giáo đã tạo ra một cách đọc mới về hiện tượng lịch sử “chủ nghĩa qui hiệp [uniatism]” theo quan điểm giáo hội học, có liên quan chặt chẽ đến vấn đề quyền tối thượng. Vào thế kỷ 17, cơ sở giáo hội học của “chủ nghĩa qui hiệp”, bắt nguồn từ giáo hội học hậu công đồng Trent, là tuyên bố về quyền tài phán trực tiếp của Tòa Rôma đối với tất cả các Giáo hội địa phương. Điều này ngụ ý cho rằng các Giáo hội không hiệp thông với Tòa này có thể là đối tượng của hoạt động truyền giáo “để đưa họ trở lại” hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo, đồng thời cho phép họ duy trì phụng vụ và kỷ luật của riêng mình. Đối thoại Chính thống giáo–Công Giáo quốc tế, trong văn bản đã được nhất trí tại Balamand, Uniatism, Method of Union of the Past, and the Present Search for Full Communion [chủ nghĩa Qui hiệp, Phương pháp Hiệp nhất của Quá khứ và Tìm kiếm Sự hiệp thông trọn vẹn Hiện tại], thừa nhận rằng, “vì cách mà Công Giáo và Chính thống giáo một lần nữa xem xét nhau trong mối quan hệ của họ với mầu nhiệm Giáo hội và khám phá nhau một lần nữa như Các Giáo hội Chị em, hình thức ‘tông đồ truyền giáo’ này được mô tả ở trên, và được gọi là ‘chủ nghĩa qui hiệp’, không còn có thể được chấp nhận như một phương pháp cần tuân theo hoặc như một mô hình của sự hiệp nhất mà các Giáo hội của chúng ta đang tìm kiếm” (O–C, 1993, 12). “Nỗ lực đại kết của các Giáo hội Chị em Đông và Tây, dựa trên đối thoại và cầu nguyện, là tìm kiếm sự hiệp thông hoàn hảo và toàn diện không phải là sự hấp thụ hay hợp nhất mà là một cuộc gặp gỡ trong chân lý và tình yêu” (id., 14). Tuy nhiên, trong tài liệu mới nhất của mình, cùng một ủy ban đã thừa nhận rằng “Động cơ của những sự hiệp nhất này luôn bị tranh cãi. Mong muốn chân thành về sự hiệp nhất của Giáo hội không thể bị loại trừ khỏi việc xem xét. Các yếu tố tôn giáo và chính trị thường đan xen vào nhau. Các liên minh thường xuất hiện như những nỗ lực chạy trốn khỏi những tình huống địa phương không may mắn” (O-C 2023, 2.6).
* Các cộng đồng Kitô giáo phương Tây: ý nghĩa giáo hội học của bình diện khu vực
132. Giá trị của bình diện khu vực trong Giáo hội Latinh cũng được ủng hộ trong một số cuộc đối thoại thần học phương Tây, quan sát thấy “sự bất đối xứng” giữa ý nghĩa của nó đối với Giáo Hội Công Giáo và đối với các cộng đồng Kitô giáo phương Tây khác (xem ARCIC 2018, 108). Nhóm Dombes bày tỏ “hy vọng rằng các hội đồng giám mục lục địa hiện tại sẽ nhận được, với sự công nhận theo giáo luật, một lĩnh vực rộng lớn về thẩm quyền liên quan đến tổ chức các Giáo hội, việc bổ nhiệm các giám mục, phụng vụ, tín lý, v.v. Điều này sẽ tạo nên ‘các giáo hội lục địa lớn’, sẽ được đổi mới và điều chỉnh các hình thức của các tòa thượng phụ cổ xưa” (Dombes 1985, 144). (25)
133. Trong Phản hồi của mình đối với Ut unum sint, Giáo hội Thụy Điển đã nói về “sự cần thiết” của một “sự phân quyền liên tục”: “Sự gia tăng tính độc lập của địa phương, nhưng cũng là sự bình đẳng lẫn nhau lớn hơn thông qua, ví dụ, các tòa thượng phụ tự trị hoặc tự chủ, sau đó sẽ trở thành một sự cần thiết, ngay cả trong các truyền thống tôn giáo khác. Người ta có thể hình dung ngay cả các khu vực có trách nhiệm của Anh giáo và Lutheran” (trang 12–13).
134. Đối thoại Công Giáo-Công Giáo cũ cũng khẳng định sự liên quan của “hiến chế thượng phụ của Giáo hội cổ thời” trong đó Giáo hoàng sẽ thực thi “quyền tối thượng như người đầu tiên trong số các thượng phụ” (OC–C 2009, 29). Những người Công Giáo cũ áp dụng mô hình này cho chính họ: “Đối với Liên minh Utrecht, sự hiệp thông giáo hội với Giáo Hội Công Giáo Rôma và với giám mục Rôma sẽ có nghĩa là nó tiếp tục hiện hữu như một giáo hội với cấu trúc phụng vụ và giáo luật riêng và các nghĩa vụ đại kết mà nó đã tham gia với các giáo hội khác, nhưng vẫn hiệp thông với giáo hoàng như dấu hiệu của sự hiệp thông phổ quát của các giáo hội địa phương” (id., 83).
135. Gần đây hơn, ARCIC, suy tự rằng “ở một số khía cạnh […] các hội đồng giám mục đại diện cho sự trở lại mô hình cổ xưa của các công đồng/thượng hội đồng khu vực” (ARCIC 2018, 110), đã xem xét “những căng thẳng và khó khăn trong việc thực hành hiệp thông ở nình diện khu vực của đời sống Anh giáo và Công Giáo Rôma” (id., 116-118).
Nó đã đề cập đến lời của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong Evangelii gaudium, nhấn mạnh tầm quan trọng của các hội đồng giám mục để cân bằng một ‘sự tập quyền quá mức’: “Công đồng Vatican II tuyên bố rằng, giống như các Giáo hội thượng phụ cổ thời, các hội đồng giám mục đang ở vị trí ‘góp phần theo nhiều cách và hữu hiệu vào việc hiện thực hóa cụ thể tinh thần hợp đoàn’ (LG 23). Tuy nhiên, mong muốn này vẫn chưa được thực hiện đầy đủ, vì tình trạng pháp lý của các hội đồng giám mục vốn coi họ là chủ thể của các quyền hạn [attributions] chuyên biệt, bao gồm thẩm quyền tín lý thực sự, vẫn chưa được xây dựng đầy đủ. Việc tập quyền quá mức, thay vì chứng minh là hữu ích, lại làm phức tạp thêm đời sống của Giáo hội và hoạt động truyền giáo của Giáo hội” (EG 32 được trích dẫn trong chú thích 38 của ARCIC 2018). Cùng tài liệu ARCIC lưu ý rằng một số người Anh giáo coi sự phát triển của các giáo phận tòng nhân theo các điều khoản được đưa ra bởi Tông hiến Anglicanorum Cœtibus (2009) là một ví dụ về sự tập quyền như vậy (5).
c. Nguyên tắc phụ đới
* Một “nguyên tắc cổ xưa”
136. Nối kết với vấn đề về các bình diện của Giáo hội, nguyên tắc phụ đới thường được đề cập trong các cuộc đối thoại đại kết như là một nguyên tắc quan trọng để thực hiện quyền tối thượng. Hội đồng Thần học Chính thống giáo–Công Giáo Bắc Mỹ mô tả nguyên tắc bổ trợ là “nguyên tắc cổ xưa được công nhận là chuẩn mực cho các cấu trúc con người được tổ chức tốt, các trường hợp ‘cao hơn’ của thẩm quyền giám mục chỉ được mong đợi hành động khi các trường hợp ‘thấp hơn’ không thể đưa ra và thực hiện các quyết định cần thiết để tiếp tục sự hiệp nhất trong đức tin”. Tài liệu áp dụng nguyên tắc này một cách đặc biệt vào việc bầu giám mục và công nhận các nhà lãnh đạo Giáo hội ở mọi bình diện: “Điều này có nghĩa là, trong số những điều khác, ít nhất, trong các Giáo hội Chính thống giáo và Công Giáo Đông phương, các giám mục sẽ được bầu bởi các hội đồng địa phương hoặc bằng các phương pháp lựa chọn truyền thống khác. Những người được bầu vào các chức vụ giám mục hoặc giáo chủ chính sẽ trình diện trước các nhà lãnh đạo Giáo hội khác ở cấp của họ, trước thượng phụ của họ, và trước giám mục Rôma là người đầu tiên trong số các thượng phụ, bằng cách trao đổi và tiếp nhận các lá thư hiệp thông, theo phong tục Kitô giáo cổ xưa. Giám mục Rôma cũng sẽ thông báo cho các thượng phụ phương Đông về cuộc bầu cử của mình” (O–C US 2010, 6g). Tương tự như vậy, thủ tục kháng cáo cổ xưa do công đồng Sardica mô tả có thể được coi là một hình thức bổ trợ (xem ở trên §§101–103).
137. ARCIC cũng nhấn mạnh đến nhu cầu thực hiện nguyên tắc bổ trợ, đặc biệt là khi ứng phó với các bối cảnh văn hóa khu vực: “Nguyên tắc bổ trợ chỉ ra tính hữu ích của các công cụ hiệp thông giữa các bình diện địa phương và hoàn cầu/phổ quát của Giáo hội. Không phải mọi vấn đề đều liên quan đến mọi người trên thế giới, và do đó không phải mọi vấn đề ảnh hưởng đến nhiều hơn một giáo hội địa phương đều cần được cân nhắc ở bình diện toàn thế giới/hoàn cầu, bình diện này hiện hữu để giải quyết các vấn đề ảnh hưởng đến tất cả. Hơn nữa, sự khác biệt về văn hóa giữa các vùng có thể khiến quyết định độc dạng trở nên thiếu sáng suốt” (ARCIC 2018, 107).
138. Đối thoại Lutheran-Công Giáo tại Hoa Kỳ đề xuất nguyên tắc bổ trợ là một trong ba “chuẩn mực đổi mới” (xem ở trên §110) và là sự bảo đảm cho sự đa dạng hợp pháp thông qua sự tham gia vào quá trình ra quyết định của toàn thể Giáo hội: “Nguyên tắc bổ trợ không kém phần quan trọng. Mỗi bộ phận của giáo hội, mỗi bộ phận đều lưu tâm đến di sản đặc biệt của mình, nên nuôi dưỡng những ân sủng mà mình đã nhận được từ Chúa Thánh Thần bằng cách thực hiện quyền tự do hợp pháp của mình.
Những gì có thể được quyết định và thực hiện đúng đắn trong các đơn vị nhỏ hơn của đời sống giáo hội không nên được chuyển đến các nhà lãnh đạo giáo hội có trách nhiệm rộng hơn. Các quyết định nên được đưa ra và các hoạt động nên được thực hiện
với sự tham gia rộng rãi nhất có thể từ dân Chúa.
Các sáng kiến nên được khuyến khích để thúc đẩy sự đa dạng lành mạnh trong thần học, thờ phượng, chứng ngôn và phục vụ. Tất cả nên quan tâm rằng, khi cộng đồng được xây dựng và sự thống nhất của nó được củng cố, thì quyền của các nhóm thiểu số và quan điểm của nhóm thiểu số được bảo vệ trong sự thống nhất của đức tin” (L–C US 1973, 25).
139. Tương tự như vậy, cuộc đối thoại quốc tế Công Giáo–Công Giáo Cũ đề cập đến nguyên tắc này khi xác định mối quan hệ có thể chấp nhận được giữa Liên minh Utrecht và Giám mục Rôma: “Cần phải tìm và thống nhất một mô hình về cách thức giám mục Rôma thực hiện thừa tác vụ của mình để phục vụ cho sự hiệp nhất hoàn cầu của giáo hội theo quan điểm hiệp thông với Liên minh Utrecht, một mô hình phát biểu cụ thể quan điểm (như đã nêu ở trên) về quyền tối thượng của ngài trong sự căng thẳng giữa nghĩa vụ hỗ tương đối với sự hiệp thông và nguyên tắc bổ trợ” (OC–C 2009, 86).
* Một “giới hạn tự nguyện trong việc thực thi quyền lực”
140. Liên quan đến nguyên tắc bổ trợ, câu hỏi về mối quan hệ giữa quyền tối thượng, được hiểu là 'thừa tác vụ hiệp nhất', và việc thực thi quyền lực là một câu hỏi phức tạp. Sự phức tạp này một phần là do thuật ngữ được áp dụng cho quyền tối thượng, vì các khái niệm có liên quan như, quyền tài phán, thẩm quyền giáo luật, quyền lực, chính quyền, hành chính được sử dụng với nhiều bình diện ý nghĩa và cộng hưởng khác nhau. Một số cuộc đối thoại và phản hồi đối với Ut unum sint cảnh cáo chống lại bất cứ hành vi lạm dụng quyền lực nào trong việc thực thi quyền lực. Phản ứng với lời khẳng định của Đức Gioan Phao-lô II rằng thừa tác vụ hiệp nhất của ng “sẽ là ảo tưởng” nếu không có “quyền lực và thẩm quyền” để hoàn thành nó (UUS 94), phản hồi từ Giáo hội Cải cách Hiệp nhất tại Vương quốc Anh (1996) kêu gọi “một cuộc xem xét lại một cách có phê phán” một giả định như vậy và tuyên bố, “chúng tôi không có kinh nghiệm về việc các vấn đề bất đồng giữa các Ki-tô hữu có lương tâm sáng suốt có thể được giải quyết đơn giản bằng cách thực thi quyền lực và thẩm quyền, nó cũng không phù hợp với sự hiểu biết của chúng tôi về bản chất của tính Công Giáo” (4).
141. Theo cách tiếp cận có phê phán tương tự, cuộc đối thoại Luther-Công Giáo tại Hoa Kỳ lập luận rằng quyền lực của Giám mục Rôma không nên lớn hơn mức cần thiết để thực thi chức năng của mình và đạt được mục tiêu của mình, đó là trở thành một ‘thừa tác viên hiệp nhất’ hữu hiệu ở bình diện hoàn cầu. Cuộc đối thoại gợi ý một sự hạn chế tự nguyện trong việc thực thi quyền lực: “Một nguyên tắc chính trị quan trọng là quyền lực trong bất cứ xã hội nào chỉ nên sử dụng lượng quyền lực cần thiết để đạt được mục tiêu được giao. Điều này cũng áp dụng cho thừa tác vụ giáo hoàng. Không thể loại trừ sự phân biệt theo giáo luật giữa thẩm quyền cao nhất và việc thực thi hạn chế quyền lực tương ứng và cần phải được nhấn mạnh. Một sự hạn chế như vậy không nhất thiết làm phương hại đến quyền tài phán phổ quát vốn được gán cho giáo theo học thuyết Công Giáo Rôma. Do đó, người ta có thể thấy trước rằng những hạn chế tự nguyện của giáo hoàng đối với việc thực thi quyền tài phán của mình sẽ đi kèm với tính hợp lệ ngày càng tăng của các cơ quan của chính quyền hợp đoàn, để các biện pháp kiểm tra và cân bằng trong quyền lực tối cao
có thể được công nhận một cách hữu hiệu” (L–C US 1973, 27).
* “Một lượng thẩm quyền đủ lớn”
142. Cùng với sự suy tự về “quyền tối thượng danh dự” trong thiên niên kỷ đầu tiên (xem ở trên §§94-98), một số cuộc đối thoại khẳng định rằng một cách thực tiễn, Giám mục Rôma sẽ cần một lượng thẩm quyền đủ lớn để đáp ứng nhiều thách thức và nghĩa vụ phức tạp liên quan đến ‘thừa tác vụ hiệp nhất’ của ngài. Bị tước mất thẩm quyền, ‘thừa tác vụ hiệp nhất’ của ngài có nguy cơ trở thành một công cụ bất lực và cuối cùng là một chức danh trống rỗng. Nhóm Dombes tuyên bố rõ ràng rằng “chúng tôi không muốn làm nghèo nàn hoặc làm suy yếu thừa tác vụ cá vị của sự hiệp thông trong Giáo hội hoàn vũ. Trong khi tôn trọng những người đã, đang hoặc sẽ thực thi thừa tác vụ này, chúng tôi muốn có một sự trong sáng của tin mừng vê thừa tác vụ này. Thừa tác vụ này phải vẫn là một sức mạnh đầy sáng kiến, đề xuất và hỗ trợ cho tất cả các Giáo hội đang phải đối diện với những thách thức của thế giới ngày nay hoặc với áp lực của một số quyền lực nào đó” (Dombes 1985, 151).
143. Tương tự như vậy, một tuyên bố hiệp nhất năm 1985 giữa những người Anh giáo và những người Công Giáo Cũ, trong khi thừa nhận giá trị của nguyên tắc bổ trợ, nêu rõ: “Chúng tôi thừa nhận rằng để vị giáo chủ hoàn cầu không chỉ là dấu hiệu của sự hiệp nhất mà còn có thể duy trì sự hiệp nhất, chân lý và tình yêu, ngài phải có nghĩa vụ triệu tập các cuộc họp của các giám mục và công đồng vào những thời điểm nhất định và trong những hoàn cảnh nhất định, và có quyền làm như vậy khi ngài cho là cần thiết. Ngài có thể được trao quyền được xác định rõ ràng và hạn chế để tiếp nhận các đơn kháng cáo. Có khả năng thực thi đúng nghĩa vụ của mình, ngài sẽ cần sự hỗ trợ của một cơ cấu văn phòng đáng kể” (OC–C 2009, Phụ lục văn bản 7).
_________________________________________________
(24). Dịch vụ thông tin 76 (1991/I), tr. 30
(25). Một quan điểm tương tự đã được Joseph Ratzinger xây dựng khi suy tư về chức năng “thượng phụ” của Giám mục Rôma: “Luật giáo hội thống nhất, phụng vụ thống nhất, các cuộc bổ nhiệm thống nhất vào các tòa giám mục từ trung tâm Rôma, tất cả những điều này không nhất thiết phải tạo thành một phần của quyền tối thượng như vậy, như có thể thấy khi cả hai chức vụ [của Giáo hoàng và Thượng phụ] trở nên thống nhất. Vì vậy, trong tương lai, chúng ta sẽ phải phân biệt rõ hơn chức năng thực tế của người kế nhiệm Thánh Phêrô với chức năng thượng phụ, và nếu cần, phải thành lập các Tòa Thượng phụ mới tách khỏi Giáo hội Latinh”, Joseph Ratzinger, Das neue Volk Gottes, Düsseldorf, 1969, 142 (dịch theo yêu cầu).
Còn tiếp
___________________________________________________