1. Vatican chấp thuận việc sùng kính Đức Mẹ ở Slovakia nhưng không công nhận các cuộc hiện ra
Bộ Giáo lý Đức tin của Vatican đã chấp thuận “nihil obstat” — tức là không có gì cản trở — việc sùng kính Đức Mẹ liên quan đến những lần Đức Trinh Nữ Maria hiện ra trên Núi Zvir gần làng Litmanová ở tây bắc Slovakia từ năm 1990 đến năm 1995 — mà không công nhận tính chất siêu nhiên của chúng.
Bức thư, có chữ ký của Hồng Y Victor Manuel Fernández, Tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin, và gửi đến Đức Tổng Giám Mục Jonáš Jozef Maxim, của Tổng giáo phận Prešov dành cho người Công Giáo theo nghi thức Byzantine, thừa nhận giá trị mục vụ của hiện tượng này và cho phép cử hành nghi lễ thờ phượng công khai mà không bình luận về tính xác thực siêu nhiên của những lần hiện ra.
Đức Hồng Y tuyên bố trong lá thư do Bộ Giáo lý Đức tin Vatican công bố rằng sự phân định đã tính đến “nhiều thành quả tâm linh” phát sinh từ hiện tượng này.
Quyết định này đáp lại yêu cầu chính thức của Đức Cha Maxim. Ngài đã gửi thư đến Vatican vào tháng 2 và tháng 5, nêu bật “vô số lời tuyên xưng và cải đạo chân thành và sâu sắc mà những người hành hương đã trải qua, những điều này vẫn tiếp tục diễn ra tại đền thờ, mặc dù các cuộc hiện ra được tường trình đã kết thúc cách đây ba thập niên. Vị giám mục người Slovakia cũng nêu bật dòng người hành hương liên tục vẫn tiếp tục đến địa điểm này, thể hiện một trải nghiệm đức tin đang diễn ra.
Đức Hồng Y Fernández đã ghi nhận một số thông điệp được tường trình là của Đức Trinh Nữ, đưa ra lời mời gọi hoán cải, vui mừng và tự do nội tâm. Một trong những văn bản được trích dẫn nhiều nhất khuyên nhủ: “Hãy để Chúa Giêsu giải thoát bạn. Và đừng để đối phương của bạn hạn chế sự tự do của bạn, vì điều đó Chúa Giêsu đã đổ rất nhiều máu. Một tâm hồn tự do là tâm hồn của một đứa trẻ” (ngày 5 tháng 12 năm 1993).
Nhiều lần, hình ảnh Đức Mẹ Maria tự biểu lộ mình là “hạnh phúc” và lặp lại những lời yêu thương vô điều kiện: “Ta yêu con, đúng như con là. Ta yêu con. Ta yêu con! Ta muốn con được hạnh phúc, nhưng thế gian này sẽ không bao giờ làm con hạnh phúc” (ngày 7 tháng 8 năm 1994). Các tín hữu cũng được mời gọi sống một đời sống tâm linh giản dị và sâu sắc: “Hãy bắt đầu sống giản dị, suy nghĩ giản dị và hành động giản dị. Hãy tìm kiếm sự thinh lặng để Thần Khí Chúa Kitô được tái sinh trong con” (ngày 5 tháng 6 năm 1994).
Một số sự mơ hồ
Tuy nhiên, Bộ Giáo lý Đức tin thừa nhận rằng “một số thông điệp chứa đựng sự mơ hồ hoặc cách diễn đạt không rõ ràng”, chẳng hạn như thông điệp cho rằng hầu hết mọi người ở một nơi nào đó trên thế giới đều bị lên án hoặc thông điệp tuyên bố rằng “nguyên nhân của mọi bệnh tật là tội lỗi”.
Những thông điệp này chưa được Vatican chấp thuận để công bố. Tuy nhiên, Đức Hồng Y người Á Căn Đình đã nhắc lại trong thư rằng, ngay từ năm 2011, một ủy ban giáo lý chuyên điều tra những lần hiện ra này đã giải thích rằng những người được cho là thị nhân không nghe thấy thông điệp bằng ngôn ngữ loài người mà chỉ có những trải nghiệm nội tâm mà sau đó họ cố gắng dịch lại, điều này giải thích một số điểm không chính xác hoặc diễn giải mang tính cá nhân.
Vì lý do này, Đức Hồng Y của Giáo triều Rôma đã yêu cầu Đức Tổng Giám Mục Prešov công bố một bản tổng hợp các thông điệp này, loại bỏ bất kỳ tuyên bố nào có thể gây nhầm lẫn hoặc làm xáo trộn đức tin của người dân thường.
Tòa thánh đã nêu rõ rằng “nihil obstat” không đồng nghĩa với việc công nhận sự can thiệp siêu nhiên, nhưng nó cho phép thờ phượng công khai và các tín hữu có thể “an toàn tiếp cận thông điệp tâm linh này”, nội dung của thông điệp có thể giúp họ sống Phúc Âm của Chúa Kitô sâu sắc hơn.
Một ngôi đền sống động
Núi Zvir, cách làng Litmanová chưa đầy hai dặm, đã là một địa điểm hành hương trong nhiều năm, đặc biệt là đối với những người theo nghi lễ Byzantine. Ba đứa trẻ đã có mặt tại những lần Đức Mẹ hiện ra, bắt đầu vào ngày 5 tháng 8 năm 1990: Ivetka Korcáková, Katka Ceselková và Mitko Ceselka.
Bước đi này của Bộ Giáo lý Đức tin có thể thực hiện được nhờ các chuẩn mực mới về hiện tượng siêu nhiên, được công bố vào tháng 5 năm 2024, trong đó quy định các mức độ phân định khác nhau, từ “nihil obstat” đến các phán đoán tiêu cực, cho phép đánh giá linh hoạt hơn về các trải nghiệm tâm linh của cộng đồng.
Trước đây, khi đứng trước những biến cố cho rằng đã thấy những thị kiến riêng, Giáo Hội luôn có những cuộc điều tra để có thể đưa ra kết luận trong hai khả năng sau: Thứ nhất là “constat de supernaturalitate” – tức là, tính chất siêu nhiên được chứng thực. Thứ hai là “non constat de supernaturalitate” – hay tính chất không siêu nhiên được chứng thực – nói dễ hiểu là do người ta bày vẽ ra, không phải là thật.
Quy định mới vào tháng 5, 2024 đưa ra một khả năng thứ ba là không công nhận tính chất siêu nhiên. Tuy nhiên, trước những hoa trái thiêng liêng từ hiện tượng, Tòa Thánh đưa ra chấp thuận “nihil obstat”, không công nhận nhưng cũng không cản trở các tín hữu đón nhận các thông điệp không mâu thuẫn với đức tin Công Giáo.
Vì chúng có hiệu lực cách đây hơn một năm, nên Bộ Giáo lý Đức tin chứ không phải giám mục địa phương mới là bên tuyên bố về những sự kiện này, và quá trình phân định của Giáo Hội Công Giáo không còn kết thúc “bằng tuyên bố về 'tính siêu nhiên'“ của các sự kiện nữa.
Mục tiêu của việc cải cách các quy định, được Đức Giáo Hoàng Phanxicô phê duyệt, là để ngăn chặn gian lận và lừa đảo lợi dụng thiện chí của các tín hữu.
Source:Catholic News Agency
2. Đức Giáo Hoàng cảm ơn Đức Hồng Y Burke, người đã xung đột với Đức Phanxicô, vì 50 năm thừa tác vụ linh mục
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã viết một bức thư nồng ấm và chi tiết gửi đến Đức Hồng Y Raymond Burke, cảm ơn vị Hồng Y người Mỹ này vì 50 năm phục vụ trong chức vụ linh mục, một cử chỉ đánh dấu sự thay đổi giọng điệu của Tòa Thánh sau nhiều năm căng thẳng giữa Đức Hồng Y Burke và Đức Thánh Cha Phanxicô.
Vị Hồng Y này là một trong những nhà phê bình nổi bật nhất trong hàng giáo phẩm đối với Đức Cố Giáo Hoàng Phanxicô, người mà vị Hồng Y rõ ràng đã mất đi sự ủng hộ.
Bức thư của Đức Lêô, được viết bằng tiếng Latin và được Đức Giáo Hoàng ký vào ngày 17 tháng 6, đã được Đức Hồng Y Burke đăng tải hôm thứ Ba trên tài khoản X chính thức của ngài. Trong đó, Đức Giáo Hoàng khen ngợi Đức Hồng Y Burke “vì sự phục vụ nhanh chóng và nhiệt thành mà ngài đã thực hiện và sự quan tâm tận tụy mà ngài đã thể hiện, đặc biệt là đối với luật pháp, vốn cũng đã phục vụ tốt cho các cơ quan của Tòa Thánh.”
Đức Giáo Hoàng tiếp tục khen ngợi chứng tá mục vụ của Đức Hồng Y Burke, ngài viết: “Đức Hồng Y đã rao giảng các giáo huấn của Phúc Âm theo đúng tấm lòng của Chúa Kitô và đã kể lại kho tàng của Ngài, siêng năng cống hiến sự phục vụ tận tụy của mình cho Giáo hội hoàn vũ.”
Trong bài đăng kèm theo bức thư của Đức Giáo Hoàng, Đức Hồng Y Burke viết rằng ngài “rất khiêm nhường” trước bức thư này và kêu gọi những người theo ngài cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng. “Xin Chúa ban phước cho Đức Giáo Hoàng Lêô và ban cho ngài nhiều năm. Viva il Papa!” Đức Hồng Y Burke viết.
Cuộc trao đổi này đánh dấu sự thay đổi đáng kể trong mối quan hệ căng thẳng giữa Đức Hồng Y Burke và Đức Thánh Cha Phanxicô, khi Đức Hồng Y Burke ngày càng bị gạt ra ngoài lề trong nhiệm kỳ của ông.
Năm 2013, Đức Phanxicô đã cách chức Đức Hồng Y Burke khỏi Bộ Giám mục Vatican - cơ quan thuộc Giáo Hội Công Giáo có chức năng đề cử các ứng viên giám mục - và điều chuyển ngài từ Tòa án tối cao của Giáo hội sang một vị trí chủ yếu mang tính nghi lễ tại Dòng Malta, sau đó cũng tước bỏ nhiều trách nhiệm ở đó và cuối cùng cách chức ngài hoàn toàn.
Là một nhà phê bình công khai về đường lối thần học mục vụ của Đức Thánh Cha Phanxicô, Đức Hồng Y Burke đã hai lần cùng các Hồng Y khác đệ trình “dubia” — là yêu cầu chính thức để làm rõ — liên quan đến giáo huấn của Đức Giáo Hoàng về việc Rước lễ cho những người Công Giáo đã ly hôn và tái hôn và việc ban phước lành cho các cặp đồng giới.
Ngài cũng là người ủng hộ mạnh mẽ Thánh lễ Latinh Truyền thống, vốn đã bị Đức Phanxicô hạn chế nghiêm ngặt vào năm 2021 thông qua tự sắc Traditionis Custodes. Tháng trước, Đức Hồng Y Burke đã công khai kêu gọi Đức Giáo Hoàng Lêô dỡ bỏ các hạn chế đối với Thánh lễ Latinh.
Vào cuối triều Giáo Hoàng của mình, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói với một cuộc họp của các viên chức Vatican vào cuối năm 2023 rằng ngài sẽ tước bỏ khoản trợ cấp và căn nhà miễn phí tiền thuê của Đức Hồng Y Burke tại Rôma. Để trả lời câu hỏi của CNA vào thứ Tư về tình hình hiện tại của ngài liên quan đến khoản trợ cấp và căn nhà, Đức Hồng Y Burke đã từ chối bình luận thông qua thư ký của mình.
Đức Hồng Y Burke, 77 tuổi, được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI truyền chức linh mục vào ngày 29 tháng 6 năm 1975, tại Đền Thờ Thánh Phêrô ở Rôma trong khi đang học tại Học viện Giáo hoàng Bắc Mỹ.
Ngài đã cử hành lễ kỷ niệm 50 năm của mình bằng Thánh lễ tạ ơn Novus Ordo vào thứ Bảy tại nhà thờ chính tòa của ngài ở Rôma, Sant'Agata dei Goti. Trong số những người đồng tế có Hồng Y Dominique Mamberti và James Harvey, là vị đã giảng trong thánh lễ.
Sự phục vụ kéo dài hàng thập niên của vị Hồng Y này bao gồm các chức vụ như giám mục của La Crosse, Wisconsin (1995–2004), tổng giám mục của St. Louis (2004–2008), và chánh án của Tòa án Tối cao của Tòa án Tông tòa (2008–2014). Ông được Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô 16 phong làm Hồng Y vào năm 2010 và giữ chức vụ là người bảo trợ của Dòng Quân sự Tối cao Malta từ năm 2014 đến năm 2023.
Đức Hồng Y Burke đã tham gia Cơ Mật Viện bầu Giáo hoàng Lêô XIV vào tháng 5.
Source:Catholic News Agency
3. Huấn đức của Đức Thánh Cha Lêô XIV trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật
Chúa Nhật, 13 Tháng Bẩy, Giáo Hội trên toàn thế giới cử hành Chúa Nhật thứ 15 Mùa Quanh Năm.
Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh Truyền Tin tại Quảng trường Tự Do - Piazza della Libertà ở Castel Gandolfo), Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến,
Chúc anh chị em một Chúa Nhật hạnh phúc! Bài Tin mừng hôm nay bắt đầu bằng một câu hỏi lớn được đặt ra cho Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, con phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Lc 10:25). Những lời này diễn tả một khát vọng thường trực trong cuộc sống chúng ta: khao khát ơn cứu độ, một cuộc sống không thất bại, tội lỗi và chết chóc.
Niềm hy vọng này của trái tim con người được mô tả như một điều gì đó để “thừa hưởng”, chứ không phải là điều gì đó có thể đạt được bằng vũ lực, cầu xin hay thương lượng. Sự sống đời đời, mà chỉ mình Thiên Chúa mới có thể ban tặng, được ban cho chúng ta như một di sản, như cha mẹ làm với con cái mình.
Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng, để nhận được ân huệ của Thiên Chúa, chúng ta phải thực hiện ý muốn của Người. Trong Luật có chép: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng ngươi,” và “yêu người lân cận như chính mình” (Lc 10,27; x. Đnl 6,5; Lv 19,18). Khi thực hiện hai điều này, chúng ta đáp lại tình yêu của Chúa Cha. Thánh ý Thiên Chúa là luật sống mà chính Chúa Cha là Đấng đầu tiên tuân theo, bằng cách yêu thương chúng ta vô điều kiện trong Con của Người, là Chúa Giêsu.
Anh chị em thân mến, chúng ta hãy nhìn lên Chúa Giêsu! Người cho chúng ta thấy ý nghĩa của tình yêu đích thực dành cho Thiên Chúa và tha nhân. Đó là một tình yêu quảng đại, không chiếm hữu; một tình yêu tha thứ không chút do dự; một tình yêu vươn ra và không bao giờ bỏ rơi người khác. Trong Chúa Kitô, Thiên Chúa đã tự trở nên người lân cận với mỗi người nam và nữ. Đó là lý do tại sao mỗi người chúng ta có thể và nên trở thành người lân cận với tất cả những người chúng ta gặp gỡ. Noi gương Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ thế gian, chúng ta cũng được mời gọi mang lại niềm an ủi và hy vọng, đặc biệt cho những ai đang cảm thấy chán nản và thất vọng.
Để sống đời đời, chúng ta không cần phải lừa dối cái chết, nhưng phải phục vụ sự sống, bằng cách chăm sóc người khác trong thời gian này, thời gian chúng ta ở bên nhau. Đó là luật tối cao, có trước mọi luật lệ của xã hội và mang lại ý nghĩa cho chúng.
Chúng ta hãy cầu xin Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của Lòng Thương Xót, giúp chúng ta mở lòng đón nhận thánh ý Chúa, vốn luôn là ý muốn của tình yêu cứu độ. Bằng cách này, chúng ta sẽ trở thành những người kiến tạo hòa bình mỗi ngày trong cuộc sống.
Sau khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói thêm như sau:
Anh chị em thân mến,
Tôi rất vui mừng được hiện diện với anh chị em tại Castel Gandolfo. Tôi xin chào các nhà chức trách dân sự và quân sự hiện diện và cảm ơn tất cả anh chị em đã nồng nhiệt đón tiếp.
Hôm qua, tại Barcelona, Lycarion May (tên trần thế là François Benjamin), một tu sĩ thuộc Dòng Anh Em Marist của Trường Học, người đã bị sát hại năm 1909 vì lòng căm thù đức tin, đã được tuyên phong chân phước. Trong hoàn cảnh thù địch, ngài đã sống sứ mệnh giáo dục và mục vụ của mình với lòng tận tụy và can đảm. Xin cho chứng tá anh hùng của vị tử đạo này là nguồn cảm hứng cho tất cả chúng ta, đặc biệt là những người đang hoạt động trong lĩnh vực giáo dục giới trẻ.
Tôi chào mừng các tham dự viên khóa học hè của Học viện Phụng vụ đến từ Ba Lan, và tôi cũng nghĩ đến các tín hữu hành hương Ba Lan đang tham gia chuyến hành hương thường niên hôm nay đến đền thánh Częstochowa.
Hôm nay đánh dấu sự kết thúc của chuyến hành hương Năm Thánh của Giáo phận Bergamo.
Tôi chào mừng các tín hữu hành hương, cùng với Đức Giám Mục của họ, đã đến Rôma để bước qua Cửa Thánh.
Tôi chào mừng cộng đoàn mục vụ của Chân phước Augustinô thành Tarano từ Colegio S. Augustinô ở Chiclayo, Peru, cũng đang có mặt tại Rôma để cử hành Năm Thánh. Tôi chào mừng các tín hữu hành hương đến từ giáo xứ San Pedro Apóstol thuộc Giáo phận Alcalá de Henares, đang kỷ niệm 400 năm thành lập giáo xứ; các tu sĩ Đạo Binh Đức Mẹ đến từ Uribia-La Guajira, Colombia; các thành viên của Gia đình Tình yêu Thương xót; Nhóm Hướng đạo Agesci Alcamo số 1; và cuối cùng là các nữ tu dòng Augustinô đang trong quá trình đào tạo.
Chúng tôi xin chào mừng dàn hợp xướng thiếu nhi của Học viện Âm nhạc Liesse đến từ Pháp. Cảm ơn sự hiện diện và cam kết của các bạn với âm nhạc và ca hát.
Hôm nay, cùng với chúng tôi, có 100 học viên từ khóa Carabinieri tại Trường Velletri, được đặt theo tên của Đấng Đáng Kính Salvo D’Acquisto. Tôi xin chào mừng Chỉ huy, cùng với các sĩ quan và hạ sĩ quan, và khuyến khích các bạn tiếp tục đào tạo để phục vụ đất nước và xã hội dân sự. Xin cảm ơn! Chúng ta hãy cùng nhau vỗ tay nồng nhiệt vì sự phục vụ của họ.
Trong những tháng hè, có rất nhiều sáng kiến liên quan đến trẻ em và thanh thiếu niên, và tôi xin cảm ơn các nhà giáo dục và hoạt náo viên đã cống hiến hết mình cho công việc này. Nhân dịp này, tôi muốn đề cập đến sáng kiến quan trọng của Liên hoan phim Giffoni, nơi quy tụ những người trẻ từ khắp nơi trên thế giới, với chủ đề năm nay là “Trở thành Con người”.
Anh chị em thân mến, chúng ta đừng quên cầu nguyện cho hòa bình và cho tất cả những ai đang phải chịu đau khổ và túng thiếu vì bạo lực hoặc chiến tranh.
Tôi chúc tất cả anh chị em một Chúa Nhật vui vẻ!
4. Bài Giảng của Đức Thánh Cha Chúa Nhật 15 Mùa Quanh Năm tại nhà thờ Thánh Tôma Villanova ở Castel Gandolfo
Lúc 10 giờ sáng Chúa nhật, ngày 13 tháng Bảy năm 2025, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã cử hành thánh lễ tại nhà thờ giáo xứ thánh Tômasô Villanova, cạnh dinh thự mùa hè của Đức Giáo Hoàng ở Castel Gandolfo, nơi ngài đang nghỉ hè trong thời gian hai tuần lễ.
Trong Bài giảng thánh lễ Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến,
Tôi rất vui mừng được cử hành Thánh lễ này cùng với anh chị em. Tôi chào tất cả mọi người hiện diện, cộng đoàn giáo xứ, các linh mục, Đức Hồng Y, Giám mục Giáo phận, và các nhà chức trách dân sự và quân sự.
Trong Tin Mừng Chúa Nhật này, chúng ta đã nghe một trong những dụ ngôn đẹp đẽ và cảm động nhất của Chúa Giêsu. Tất cả chúng ta đều biết dụ ngôn Người Samari nhân hậu (Lc 10:25-37).
Dụ ngôn này không ngừng thách thức chúng ta suy gẫm về cuộc sống của chính mình. Nó làm xáo trộn lương tâm đang ngủ yên hoặc bị phân tâm của chúng ta, và cảnh báo chúng ta về nguy cơ của một đức tin tự mãn, hài lòng với việc tuân giữ lề luật bề ngoài nhưng không có khả năng cảm nhận và hành động với cùng một lòng trắc ẩn thương xót như Thiên Chúa.
Dụ ngôn này thực sự nói về lòng trắc ẩn cảm thương. Đúng vậy, câu chuyện Tin mừng nói về lòng cảm thương đã thúc đẩy người Samari hành động, nhưng trước hết, nó nói về cách người khác nhìn người bị thương nằm bên vệ đường sau khi bị bọn cướp tấn công. Chúng ta được kể rằng một tư tế và một thầy Lê-vi “thấy người ấy và đi ngang qua” (câu 32). Tuy nhiên, về người Samari, Tin mừng nói rằng “ông ấy thấy và chạnh lòng thương” (câu 33).
Anh chị em thân mến, cách chúng ta nhìn người khác mới là điều quan trọng, bởi vì nó cho thấy những gì trong lòng chúng ta. Chúng ta có thể nhìn và đi ngang qua, hoặc chúng ta có thể nhìn và cảm động với lòng cảm thương. Có một kiểu nhìn hời hợt, lơ đãng và vội vàng, một kiểu nhìn mà giả vờ không nhìn. Chúng ta có thể nhìn mà không bị lay động hay bị thách thức bởi cái nhìn đó. Rồi cũng có kiểu nhìn bằng con mắt của trái tim, nhìn gần hơn, đồng cảm với người khác, chia sẻ trải nghiệm của họ, để cho chính mình được lay động và thách thức. Kiểu nhìn này đặt ra câu hỏi về cách chúng ta sống cuộc đời mình và trách nhiệm mà chúng ta cảm thấy đối với người khác.
Dụ ngôn này trước hết nói với chúng ta về cách Thiên Chúa nhìn chúng ta, để đến lượt chúng ta, chúng ta có thể học cách nhìn hoàn cảnh và con người bằng đôi mắt của Người, tràn đầy tình yêu thương và lòng trắc ẩn. Người Samari nhân hậu thực sự là hình ảnh của Chúa Giêsu, Người Con vĩnh cửu mà Chúa Cha đã sai đến trong lịch sử của chúng ta chính vì Người đã nhìn nhân loại với lòng trắc ẩn và không bỏ qua. Giống như người đàn ông trong Tin mừng đang đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, nhân loại đang đi xuống vực sâu của sự chết; ngay cả trong thời đại của chúng ta, chúng ta cũng phải đối diện với bóng tối của sự dữ, đau khổ, nghèo đói và mầu nhiệm của cái chết. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã nhìn chúng ta với lòng trắc ẩn; Người muốn đi cùng con đường của chúng ta và xuống giữa chúng ta. Trong Chúa Giêsu, người Samari nhân hậu, Người đã đến để chữa lành vết thương của chúng ta và đổ trên chúng ta dầu thơm tình yêu và lòng thương xót của Người.
Đức Thánh Cha Phanxicô, người thường nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa là lòng thương xót và lòng trắc ẩn, đã từng gọi Chúa Giêsu là “lòng trắc ẩn của Chúa Cha đối với chúng ta” (Kinh Truyền Tin, ngày 14 tháng 7 năm 2029). Thánh Augustinô nói với chúng ta rằng, như người Samari nhân hậu đã đến giúp đỡ chúng ta, Chúa Giêsu “muốn được biết đến như người lân cận của chúng ta. Thật vậy, Chúa Giêsu Kitô cho chúng ta nhận ra rằng chính Người đã chăm sóc người đàn ông nửa sống nửa chết bị bọn cướp đánh đập và bỏ lại bên vệ đường (De Doctrina Christiana, I, 30.33).
Vậy thì, chúng ta có thể hiểu tại sao dụ ngôn này lại thách thức đến vậy đối với mỗi người chúng ta. Nếu Chúa Kitô cho chúng ta thấy dung mạo của một Thiên Chúa giàu lòng thương xót, thì tin vào Người và trở thành môn đệ của Người có nghĩa là để cho mình được biến đổi và mang lấy những cảm xúc tương tự của Người. Điều đó có nghĩa là học cách có một trái tim biết rung động, đôi mắt biết nhìn và không nhìn đi chỗ khác, đôi tay biết giúp đỡ và xoa dịu vết thương của người khác, đôi vai biết gánh vác những người đang cần.
Trong bài đọc thứ nhất hôm nay, chúng ta nghe lời của Môsê, người nói với chúng ta rằng việc tuân giữ các điều răn của Chúa và hướng lòng trí về Người không phải là việc nhân rộng các hành động bên ngoài, mà là nhìn vào chính trái tim mình và khám phá ra rằng Thiên Chúa đã viết nên luật yêu thương của Người ở đó. Nếu chúng ta nhận ra điều sâu xa Nhờ Chúa Kitô, Người Samari nhân hậu, yêu thương và chăm sóc chúng ta, chúng ta cũng sẽ được thúc đẩy để yêu thương theo cùng một cách và trở nên nhân hậu như Người. Một khi chúng ta được Chúa Kitô chữa lành và yêu thương, chúng ta cũng có thể trở thành chứng nhân cho tình yêu và lòng trắc ẩn của Người trong thế giới này.
Anh chị em thân mến, ngày nay chúng ta cần “cuộc cách mạng tình yêu” này. Ngày nay, con đường từ Giêrusalem xuống Giêricô là con đường mà tất cả những ai sa vào tội lỗi, đau khổ và nghèo đói đã đi qua. Đó là con đường mà tất cả những ai bị đè nặng bởi những rắc rối hay bị tổn thương bởi cuộc sống đã đi qua. Con đường mà tất cả những ai vấp ngã, mất phương hướng và chạm đáy vực thẳm đã đi qua. Con đường mà tất cả những dân tộc bị trấn lột, cướp bóc và cướp giật, nạn nhân của các hệ thống chính trị chuyên chế, của một nền kinh tế đẩy họ vào cảnh nghèo đói, và của những cuộc chiến tranh giết chết ước mơ và chính cuộc sống của họ.
Chúng ta làm gì? Chúng ta chỉ nhìn và bước đi, hay chúng ta mở lòng với người khác, như người Sa-ma-ri? Đôi khi chúng ta chỉ bằng lòng làm tròn bổn phận của mình, hay chỉ coi những người cùng nhóm, cùng suy nghĩ, cùng quốc tịch hoặc cùng tín ngưỡng là người lân cận? Chúa Giêsu đảo ngược lối suy nghĩ này bằng cách trình bày cho chúng ta một người Samari, một người ngoại kiều hay một kẻ dị giáo, hành động như một người lân cận với người bị thương. Và Người yêu cầu chúng ta cũng làm như vậy.
Đức Bênêđictô XVI đã viết, người Samari “không hỏi nghĩa vụ liên đới của mình phải nới rộng đến đâu. Người cũng không hỏi về công trạng cần có để được sống đời đời. Một điều khác xảy ra: trái tim người ấy bị vặn mở ra... Nếu câu hỏi là ‘Người Samari có phải là người lân cận của tôi không?’ thì câu trả lời rõ ràng sẽ là không, xét theo hoàn cảnh lúc bấy giờ. Nhưng giờ đây, Chúa Giêsu đã đảo ngược toàn bộ vấn đề: người Samari, một người ngoại kiều, tự biến mình thành người lân cận và cho tôi thấy rằng tôi phải học cách trở thành người lân cận từ sâu thẳm bên trong và rằng tôi đã có câu trả lời trong chính mình. Tôi phải trở nên giống như một người đang yêu thương, một người có trái tim rộng mở để được lay động bởi nhu cầu của người khác” (Chúa Giêsu thành Nazareth, 197).
Nhìn mà không bước qua, dừng lại nhịp sống hối hả, để cuộc sống của những người khác, dù họ là ai, với những nhu cầu và khó khăn của họ, chạm đến trái tim chúng ta. Đó là điều khiến chúng ta trở nên gần gũi nhau, tạo nên tình huynh đệ đích thực và phá vỡ những bức tường và rào cản. Cuối cùng, tình yêu sẽ chiến thắng, và chứng tỏ mạnh mẽ hơn cả sự dữ và cái chết.
Các bạn thân mến, chúng ta hãy hướng về Chúa Kitô, Người Samari nhân hậu. Hôm nay, chúng ta hãy lắng nghe tiếng nói của Người một lần nữa. Vì Người nói với mỗi người chúng ta: “Hãy đi và làm như vậy” (câu 37).
5. Đức Giáo Hoàng Lêô XIV chia sẻ thông điệp tới những người hành hương tại Thánh lễ lịch sử ở nhà thờ chính tòa Canterbury
Edward Pentin của National Catholic Register có bài tường trình nhan đề “Pope Leo XIV Shares Message to Pilgrims at Historic Mass in Canterbury Cathedral”, nghĩa là “Đức Giáo Hoàng Lêô XIV chia sẻ thông điệp tới những người hành hương tại Thánh lễ lịch sử ở nhà thờ chính tòa Canterbury”.
Các tín hữu Công Giáo đã tập trung đông đảo tại Nhà thờ Canterbury vào tối thứ Hai để tham dự Thánh lễ lịch sử, bao gồm cả phép lành của Đức Giáo Hoàng và nghi thức Thánh Thể do sứ thần tòa thánh cử hành để tôn vinh Thánh Thomas Becket và việc di chuyển thánh tích của ngài vào năm 1220.
Kể từ ít nhất là cuối thế kỷ 20, các nhà lãnh đạo Anh giáo của Nhà thờ đã cho phép giáo xứ Công Giáo địa phương St. Thomas of Canterbury cử hành lễ chuyển giao thánh tích vào ngày 7 tháng 7 hàng năm với Thánh lễ tại bàn thờ chính.
Nhưng Thánh lễ năm nay lại rất khác biệt: Được cử hành để đánh dấu Năm Thánh Hy Vọng, thánh lễ có sự hiện diện của sứ thần tòa thánh, Đức Tổng Giám Mục Miguel Maury Buendia, và một dàn hợp xướng đẳng cấp thế giới, biến thánh lễ thành một cảnh tượng hoành tráng có ý nghĩa lịch sử.
Nhà thờ chật kín các linh mục Công Giáo, chức sắc và khách hành hương, thậm chí cả đội tuyển cricket của Vatican đang lưu diễn ở Anh, nhiều khách hành hương phải ngồi bên ngoài ở hành lang bên hông nhà thờ vì lượng người tham dự quá đông.
Theo ban tổ chức, có khoảng 800 tín hữu tham dự Thánh lễ, khiến đây trở thành “Thánh lễ có số lượng người tham dự đông nhất tại Nhà thờ Canterbury kể từ sau cuộc đại trùng tu [sau khi ngôi thánh đường bị vua Henry VIII phá huỷ vào năm 1538”, một người Công Giáo, Lord Christopher Monckton của Brenchley, chia sẻ với Register.
Lễ kỷ niệm lịch sử gần đây nhất về việc chuyển dịch, có sự tham dự của 300 tín hữu, diễn ra cách đây một thập niên khi Đức Hồng Y George Pell cử hành Thánh lễ tại nhà thờ chính tòa, trở thành vị Hồng Y Công Giáo đầu tiên cử hành Bí tích Thánh Thể tại đây kể từ vị tổng giám mục Công Giáo cuối cùng của Canterbury, Đức Hồng Y Reginald Pole, vào thế kỷ 16.
Thánh lễ hôm thứ Hai diễn ra vài tháng sau khi ban quản lý Nhà thờ Chính tòa khiến nhiều tín hữu phẫn nộ khi cho phép một loạt “buổi khiêu vũ im lặng” diễn ra trong gian giữa nhà thờ vào năm ngoái. Tuần trước, họ tuyên bố sẽ cho phép tổ chức “Vũ hội Gatsby Vĩ đại” vào tháng Chín. Các sự kiện này, vốn bị lên án là xúc phạm, nhằm mục đích gây quỹ cho nhà thờ đang thiếu tiền.
Trong thông điệp gửi đến những người hành hương hôm thứ Hai, Đức Thánh Cha cầu nguyện rằng trong Năm Thánh này, những người tham dự sẽ “thực sự là những người hành hương của hy vọng”. Ngài bảo đảm với họ về “phước lành thiêng liêng của ngài” và rằng họ “dâng lòng sùng kính của mình lên Thánh Thomas thành Canterbury cho cuộc tử đạo của ngài”.
Thánh Thomas Becket, là Cựu Đại pháp quan trước khi được bổ nhiệm làm Tổng giám mục Canterbury năm 1162, đã có cuộc xung đột gay gắt với Vua Henry Đệ Nhị về những nỗ lực của nhà vua nhằm khẳng định quyền lực hoàng gia đối với Giáo hội.
Sau khi Thánh Thomas rút phép thông công các giám mục ủng hộ nhà vua, bốn hiệp sĩ đã đến Canterbury, với ấn tượng rằng Henry muốn giết tổng giám mục. Sau khi các hiệp sĩ giết Thánh Thomas Becket tại Nhà thờ Canterbury vào năm 1170, sự tử đạo của ngài nhanh chóng dẫn đến một phong trào sùng đạo rộng lớn.
Những câu chuyện sống động của Canterbury
Sau khi ngài qua đời, số lượng người hành hương đến Canterbury để tưởng nhớ Thánh Thomas Becket tiếp tục tăng, dẫn đến việc hài cốt ngài được chuyển từ hầm mộ vào năm 1220 đến một đền thờ tráng lệ phía sau Bàn thờ Cao. Danh tiếng của đền thờ ngày càng lan rộng, dòng người hành hương đến thờ phụng Thánh Thomas cũng tăng theo, tạo cảm hứng cho Geoffrey Chaucer viết nên tác phẩm Canterbury Tales. Bốn thế kỷ sau, vào năm 1538, Vua Henry VIII, lúc đó đang vướng vào một cuộc tranh chấp tương tự giữa Giáo Hội và nhà nước, đã ra lệnh phá hủy hoàn toàn đền thờ. Ngày nay, nơi từng tọa lạc chỉ còn lại một dòng chữ khắc và một ngọn nến cháy sáng.
Một ngọn nến đánh dấu vị trí đền thờ Thánh Thomas Becket từng tọa lạc tại Nhà thờ Canterbury cho đến khi nó bị phá hủy theo lệnh của Vua Henry VIII vào năm 1538. Henry, người sáng lập Giáo hội Anh, đã tuyên bố Thánh Thomas Becket là kẻ phản bội chứ không phải là một vị thánh và ra lệnh xóa bỏ mọi thông tin liên quan đến ngài khỏi các văn bản tôn giáo và biểu tượng.
Trong bài giảng tại Thánh lễ hôm thứ Hai, Đức Tổng Giám Mục Maury chỉ ra rằng phụng vụ được cử hành tại nhà thờ chính tòa lâu đời nhất của thế giới nói tiếng Anh, và các cửa sổ kính màu của nhà thờ chính tòa “minh họa nhiều phép lạ được tường trình do Thánh Thomas thực hiện vào thời trung cổ”.
“Đây cũng phải là một câu chuyện sống động. Thế giới của chúng ta, ngày nay cũng như ngày xưa, đang cần hy vọng,” ông nói.
Đức Hồng Y nói tiếp: “Các tín hữu nên được “truyền cảm hứng từ sự thánh thiện của Thánh Thánh Thomas và chứng tá can đảm của ngài cho Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài”. Giống như Thánh Phaolô, Đức Hồng Y nói, Thánh Thomas Becket vui mừng trong những đau khổ của mình, không phải vì lợi ích cá nhân “mà vì Thân Thể Chúa Kitô, đặc biệt là trong việc bảo vệ sự tự do của Giáo Hội khỏi sự can thiệp của thế tục.”
Thánh Thomas Becket đã đón nhận thập giá của mình với một tình yêu tự hiến, Sứ thần Tòa Thánh nói, tự biến mình thành người phục vụ để mang người khác đến với tình yêu Thiên Chúa. Ngài cũng trích dẫn lời khuyên gần đây của Đức Giáo Hoàng Lêô “hãy tránh sang một bên để Chúa Kitô được ở lại, hãy trở nên nhỏ bé để Người được biết đến và tôn vinh.”
“Thánh Thomas không chết vì một ý thức hệ nào cả,” Đức Tổng Giám Mục Maury khẳng định. “Sự tử đạo của ngài là một minh chứng cho mối quan hệ với Chúa Kitô mà ngài đã vun đắp trong sứ vụ giám mục của mình: một sự tham gia vào mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa chúng ta.”
Ngài kết thúc bằng lời kêu gọi các tín hữu hãy cầu nguyện với Thánh Thomas như những người hành hương đang cần hy vọng và chữa lành, cầu xin sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria để “chúng ta có thể trở thành những chứng nhân trung thành của Chúa Kitô, ngày càng lớn lên trong tình yêu dành cho Ngài và cho nhau. Amen.”
Vào cuối Thánh lễ hành hương, với phần nhạc thánh của nhà soạn nhạc người Anh thế kỷ 16 William Byrd và được trình bày bởi Dàn hợp xướng Tenebrae nổi tiếng thế giới, cộng đoàn đã hát bài thánh ca yêu nước sôi nổi của William Blake, “Giêrusalem”. Tổng giám mục Maury đã ban phước cho các tín hữu bằng thánh tích của Thánh Thomas.
Nhiều người có mặt đã chia sẻ với tờ Register rằng họ có ấn tượng sâu đậm trước ý nghĩa lịch sử của Thánh lễ.
“Tôi nghĩ đây là sự kiện đáng chú ý nhất,” Michael Southern, người Công Giáo cả đời và đang phụng sự tại một giáo xứ ở Tunbridge Wells gần đó, chia sẻ. Ông lưu ý rằng thời thế đã thay đổi kể từ khi người Anh giáo và Công Giáo không được phép vào nhà thờ của nhau, và rất ngạc nhiên khi được hát bài Salve Regina trong nhà thờ chính tòa. “Đó là nơi bài hát nên được hát,” ông nói. “Hy vọng đây là khởi đầu của một điều gì đó.”
Cha Paul Diaper của Opus Dei, người đã đi từ giáo xứ St. Thomas More ở Luân Đôn, Swiss Cottage, đến đây cho biết việc có một Thánh lễ như vậy tại nhà thờ mẹ của Anh là “đầy ấn tượng, rất cảm động. Chúng ta phải cầu nguyện rất nhiều cho sự cải đạo của Anh”, ngài nói.
Nhà bình luận Công Giáo đáng kính Gavin Ashenden, người đã được xác nhận là tín hữu Anh giáo tại Nhà thờ Canterbury vào những năm 1970 khi còn là một cậu bé trước khi trở thành linh mục Anh giáo và sau đó được gia nhập Giáo Hội Công Giáo vào năm 2019, cho biết ông không bao giờ có thể tưởng tượng được một Thánh lễ được cử hành tại đó. “Tôi vẫn còn hơi choáng váng, và vô cùng phấn khích”, ngài nói với tờ Register.
Nhà thờ được xây dựng để cử hành Thánh lễ
“Có một sự hiện diện trong hàng giám mục và linh mục Công Giáo,” Ashenden nói. “Những người Anh giáo, cầu Chúa phù hộ cho họ, mượn trang phục và một số vũ đạo, nhưng — tôi không biết diễn tả thế nào nữa — có một sự chân thực: Đây là Thánh lễ Công Giáo mà nhà thờ được xây dựng để dành cho, không thể nhầm lẫn và có một cảm giác đồng điệu chữa lành.”
“Thật tuyệt vời – không gian, con người, âm nhạc, như một chút thiên đường vậy,” Jack Valero, phát ngôn viên của Opus Dei tại Anh, chia sẻ. “Giáo Hội Công Giáo vẫn còn sống động, chúng tôi thuộc về đất nước này, chúng tôi có điều gì đó thực sự quan trọng để nói. Và giờ đây, chúng tôi đang ở đây, trung tâm của Kitô giáo trên Quần đảo Anh.”
Ông cho biết ông không biết liệu điều đó có đánh dấu sự khởi đầu của một sự hồi sinh hay không nhưng cho biết nó cho thấy trái tim Công Giáo của đất nước “đang đập” và Thánh lễ là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy rằng, “với tất cả những gì đang diễn ra, có điều gì đó rất mạnh mẽ ở đây trong Giáo Hội Công Giáo. Chúng tôi tự tin.”
Chỉ ra hai cuộc bỏ phiếu gần đây tại Hạ viện, một là hợp pháp hóa phá thai cho đến khi sinh và một là cho phép tự tử có sự hỗ trợ, Ashenden, cựu giáo sĩ của Nữ hoàng Elizabeth II, cho biết đất nước đang phải đối mặt với “sự can thiệp quá mức của nhà nước”. Do đó, Thánh lễ hôm thứ Hai, ông nói, không phải “chỉ là khoảnh khắc ăn mừng hoài niệm” mà là lời nhắc nhở rằng tổ tiên của đất nước đã phải trả giá đắt nhất để có thể thực hành đức tin chân chính duy nhất. “Đó là con đường và nguyên tắc mà chúng ta đang ăn mừng tối nay”, ông nói.
Source:National Catholic Register