Trên trang mạng của Viện Tôma (https://thomisticinstitute.org/sed-contra/21f1mw7ex69c2d1a9ogi45uej2dk4r) Tiến sĩ Christopher Kaczor tâm sự:

Năm 2008, kỷ niệm 16 năm ngày cưới của tôi, và tôi đang bước vào Đền Thánh Quốc gia Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội để cầu xin một phép lạ. Tôi sắp nộp đơn xin từ chức khỏi công việc mơ ước ở Washington, D.C. Tôi sắp từ bỏ mức tăng lương 40%, những người bạn tuyệt vời và giáo xứ tốt nhất mà tôi từng tham gia. Thế là tôi đi qua nhiều nhà nguyện phụ cho đến khi tìm thấy bức tượng Đức Mẹ Sầu Bi. Tôi quỳ xuống. Tôi khóc. Tôi cầu xin một phép lạ vào phút chót.

Tại sao tôi lại từ chức? Tôi yêu Washington D.C. đến đâu, vợ tôi ghét Washington D.C. đến đó. Vậy nên, vài tháng trước, tôi đã bắt đầu cầu xin bằng cách nào đó Chúa sẽ thay đổi ý định của nàng. Tôi cầu nguyện, cầu nguyện, nhưng chẳng có gì thay đổi cả.

Cuối cùng, sau vài tháng không có kết quả, tôi nói với vợ: “Em yêu, anh đã cầu nguyện rất nhiều cho em để em có thể yêu mến Washington DC. Anh chỉ muốn cho em biết thôi. Anh đã cầu nguyện mỗi ngày cho điều đó.” Và nàng nói: “Ồ, thú vị đấy. Anh đã hỏi Chúa xem Chúa muốn gì chưa?” Suy nghĩ đầu tiên của tôi là: “Chưa. Mình chưa làm điều đó.” Tiếp theo, tôi nghĩ: “Mình không muốn hỏi Chúa xem Chúa muốn gì. Nếu Chúa muốn mình quay lại Los Angeles thì sao? Đó là điều cuối cùng mình muốn.” Tôi sợ cầu nguyện. Nhưng sau khoảng ba tuần, tôi nghĩ: “Chúa toàn năng và nhân từ, và có lẽ mình nên hỏi Chúa xem Chúa muốn gì.”

Vì vậy, cuối cùng tôi đã cầu nguyện để hỏi Chúa xem Chúa muốn gì. Tôi gần như ngay lập tức tin chắc rằng gia đình tôi nên chuyển về Los Angeles.

Có lẽ tôi nên nói với các bạn rằng khi tôi trở về Los Angeles, tôi đã rất vui vẻ, và mọi thứ đều diễn ra tốt đẹp. Nhưng đó sẽ là lời nói dối. Thực ra, tôi đã rất đau khổ và chán nản, nhớ bạn bè và nhớ rất nhiều điều về DC.

Vì vậy, tôi đã làm điều mà mọi học giả sẽ làm với một câu hỏi nghiêm túc. Tôi đã tìm kiếm trên Google, "làm thế nào để hạnh phúc hơn".

Điều tôi khám phá ra là một lĩnh vực tâm lý học hoàn toàn mới mang tên "tâm lý học tích cực". Nó được khởi xướng bởi Martin Seligman từ Đại học Pennsylvania. Ý tưởng của Seligman là các nhà tâm lý học không chỉ nên nghiên cứu phần tiêu cực của con người - trầm cảm, lo âu và những thứ tương tự. Tâm lý học cũng nên tập trung ít nhất một chút vào những gì tích cực - khả năng phục hồi, hy vọng, sự phát triển và sức mạnh. Thay vì chỉ cố gắng giảm thiểu vấn đề, làm thế nào tâm lý học có thể giúp mọi người trở nên hạnh phúc hơn?

Vì vậy, Seligman và những người khác trong lĩnh vực tâm lý học tích cực đã nghiên cứu hạnh phúc theo cách thực nghiệm. Seligman định nghĩa hạnh phúc theo năm đặc điểm: cảm xúc tích cực, sự gắn kết, mối quan hệ, ý nghĩa và thành tích – (Positive emotion, Engagement, Relationship, Meaning, and Achievement, tắt là PERMA).

Seligman đã thực hiện một nghiên cứu thú vị bằng cách chia sinh viên đại học của mình thành hai nhóm. Với nhóm đầu tiên, ông nói, "Tôi muốn các bạn đi và vui chơi". Hãy đi xem phim, ăn kem, rồi quay lại kể cho tôi nghe về cảm xúc tích cực của các bạn.

Với nhóm sinh viên đại học thứ hai, Seligman yêu cầu họ phục vụ người khác: Đến viện dưỡng lão. Dạy trẻ em đọc.

Khi họ quay lại, cả hai nhóm đều báo cáo rằng họ cảm thấy cảm xúc tích cực gia tăng. Nhưng những người ăn kem cho biết cảm xúc tích cực đó biến mất rất nhanh. Những người ra ngoài phục vụ người khác có cảm xúc tích cực gia tăng kéo dài hơn một tuần. Seligman nhận thấy những người phục vụ người khác gia tăng cảm xúc tích cực lâu dài hơn những người chỉ làm những việc vui vẻ.

Là một Kitô hữu, tôi đã nghe nhiều lần về giá trị của việc phục vụ người khác. Giờ đây, tâm lý học thế tục đang chứng minh điều mà tôi được dạy khi còn nhỏ - rằng giúp đỡ hàng xóm khi gặp khó khăn là một điều tốt.

Các nhà tâm lý học tích cực còn khám phá ra điều gì nữa? Christopher Peterson nhận thấy rằng sự tha thứ là điều cần thiết cho hạnh phúc. Tại sao sự tha thứ lại quan trọng đến vậy? Vâng, mọi mối quan hệ giữa con người đều có những căng thẳng riêng. Những cuộc tranh cãi và bất đồng giữa con người đã có từ thời Vườn Địa Đàng. Bạn có thể sống qua với cả gia đình, bạn bè, tất cả mọi người, và bạn có thể hoàn toàn cô đơn nếu không có lòng tha thứ. Chúng ta thực sự không thể có bất cứ mối quan hệ lâu dài nào sâu sắc nào nếu không có lòng tha thứ.

Nếu bạn nghĩ về những lời dạy của Chúa Giêsu, chúng càng rõ ràng hơn về tầm quan trọng của lòng tha thứ. Một lần nữa, tôi khám phá ra sự hài hòa giữa tâm lý học thế tục và giáo lý Công Giáo.

Một điều khác mà các nhà tâm lý học thế tục tìm thấy là tầm quan trọng của lòng biết ơn. Nếu bạn muốn hạnh phúc hơn, bạn có thể gia tăng lòng biết ơn đối với những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Một lý do khiến lòng biết ơn làm tăng thêm hạnh phúc là nếu bạn thực hành lòng biết ơn, bạn sẽ rèn luyện tâm trí mình để tìm kiếm những điều tốt đẹp vốn đã có trong cuộc sống. Theo tâm lý học thế tục, lòng biết ơn là điều cực kỳ có lợi cho chúng ta khi thực hành.

Vậy lòng biết ơn có đóng vai trò gì trong đời sống tâm linh Công Giáo không? Thánh Ignatius Loyola đã khuyến nghị tất cả những người đến với ngài để được hướng dẫn tâm linh Họ làm điều mà ngài gọi là "Kiểm điểm". Vào đầu phần Kiểm điểm, bạn nghĩ về 24 giờ qua và nhớ lại những món quà mà Chúa đã ban cho bạn trong khoảng thời gian đó. Nó gần như là một bản sao chính xác những gì Seligman khuyến nghị.

Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ tự tử giảm xuống mức thấp nhất vào Ngày Lễ Tạ ơn. Vào Ngày Lễ Tạ ơn, nhiều người thực hành lòng biết ơn hơn. Họ tập trung vào những gì họ có thay vì những gì họ không có. Người Công Giáo cực kỳ may mắn, bởi vì chúng ta có thể có Ngày Lễ Tạ ơn không chỉ một lần mỗi năm vào tháng 11, mà là vào mỗi Chúa nhật, và thậm chí thường xuyên hơn nếu chúng ta muốn. Bí tích Thánh Thể là thuật ngữ Hy Lạp có nghĩa là tạ ơn, và mỗi Thánh lễ đều kết thúc bằng câu "Tạ ơn Chúa".

Điểm mấu chốt là như thế này. Khi đọc về tâm lý học tích cực, tôi thấy tất cả những điểm tương đồng này, tất cả những cách mà tâm lý học tích cực đã khám phá lại và khẳng định lại sự khôn ngoan của thực hành Kitô giáo.

Liệu tâm lý học tích cực có phải là tất cả những gì chúng ta cần? Kitô giáo mang lại điều gì, nếu có, mà bạn không thể tìm thấy trong tâm lý học tích cực?

Tôi nghĩ rằng có những điều mà Kitô giáo mang lại rất đặc biệt và không thể tìm thấy trong tâm lý học. Tôi nghĩ chỉ riêng hạnh phúc tâm lý thôi là chưa đủ.

Những điều đó là gì? Thứ nhất, tất cả chúng ta đều phải đối diện với cái chết. Cái chết là sự kết thúc của cảm xúc tích cực, sự gắn kết, mối quan hệ, ý nghĩa, thành tựu. Tâm lý học thế tục thực sự không có câu trả lời cho cái chết. Nó không có phương tiện nào để vượt qua nó. Tất nhiên, truyền thống Kitô giáo thì có. Chúng ta có hy vọng về sự phục sinh.

Một điều thứ hai mà Kitô giáo mang lại mà tâm lý học tích cực không thể có, đó là liên quan đến hành vi sai trái. Tôi không nghĩ bất cứ người trung thực nào có thể nói, "Tôi hoàn hảo. Tôi chưa bao giờ làm gì sai trái với ai cả." Tâm lý học có thể giúp xóa bỏ cảm giác tội lỗi. Giống như khi bạn tiêm một mũi Novocaine, nó sẽ làm mất cảm giác răng sâu và nhiễm trùng của bạn. Nhưng tâm lý học tích cực không có bất cứ phương thuốc nào cho chính cảm giác tội lỗi đó. Tâm lý học có thể cố gắng xóa bỏ cảm giác tội lỗi, nhưng điều này cũng tương tự như việc sử dụng Novocain. Nó không loại bỏ được nhiễm trùng trong răng của bạn, mà chỉ che giấu vấn đề.

Nhưng một lần nữa, Khitô giáo có câu trả lời. Chiên Thiên Chúa cất tội lỗi của thế gian như một phương thuốc chữa lành tội lỗi. Tạ ơn Chúa vì có một bí tích gọi là xưng tội, nơi rác rưởi chúng ta tạo ra có thể được vứt bỏ.

Điều thứ ba mà Kitô giáo mang lại mà không thể tìm thấy trong tâm lý học chính là Thiên Chúa. Tâm lý học tích cực trung lập với sự hiện hữu của Thiên Chúa. Nhưng chính vì trung lập, tâm lý học tích cực không tập trung vào việc vun đắp mối quan hệ với Thiên Chúa. Tâm lý học có thể và thực sự cho thấy: những người thực hành đức tin trung bình hạnh phúc hơn nhiều so với những người không thực hành. Nhưng nó không cung cấp cho chúng ta nguồn lực để làm sâu sắc thêm mối quan hệ của chúng ta với Chúa. Nhưng đó chính là mục tiêu của Kitô giáo, là thiết lập, làm sâu sắc hơn và nuôi dưỡng tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và tình yêu của chúng ta đối với người lân cận. Đó là mục đích của các bí tích. Đó là mục đích của những câu chuyện trong Kinh Thánh. Đó là mục đích của sự chết và sự phục sinh của Chúa Kitô, để kết hợp chúng ta một lần nữa với Chúa để chúng ta có thể yêu Chúa và yêu người lân cận theo cách Chúa Giêsu đã làm.

Nếu Kitô giáo mang đến cho chúng ta tất cả những điều mà tâm lý học tích cực có thể mang lại, và nếu Kitô giáo thậm chí còn mang lại cho chúng ta nhiều hơn thế nữa, thì vẫn còn một vấn đề lớn. Bạn có biết một Kitô hữu nào mà lại cáu kỉnh và không vui không? Nếu những gì tôi nói là đúng cho đến nay, làm sao chúng ta có thể giải thích được những Kitô hữu cáu kỉnh và không vui?

Thứ nhất, tâm lý học tích cực cho thấy mỗi người có điểm chuẩn di truyền khác nhau về hạnh phúc. Bạn có thể thấy điều này ở trẻ em. Một số em là những tia nắng mặt trời, vui vẻ, phấn khởi. Một số em hay cáu kỉnh, buồn bã và chán nản. Một số Kitô hữu sinh ra với khuynh hướng di truyền tiêu cực hơn. Nếu họ không theo Kitô giáo, họ sẽ còn kém hạnh phúc hơn bây giờ.

Thứ hai, niềm tin tôn giáo của bạn không bảo vệ bạn khỏi tổn thương thể chất hoặc bệnh tật. Một Kitô hữu cũng như một người vô thần đều có thể bị xe cán, và nếu bạn bị xe cán, bạn sẽ kém hạnh phúc hơn so với khi bạn không bị xe cán. Điều tương tự cũng đúng với bệnh tâm thần. Niềm tin tôn giáo của bạn không giúp bạn miễn nhiễm với tất cả các bệnh tâm thần. Vì vậy, có thể có những Kitô hữu gặp vấn đề về thể chất hoặc sức khỏe tâm thần, làm giảm hạnh phúc của họ. Việc thực hành tôn giáo của họ không hoàn toàn bảo vệ họ khỏi những điều đó.

Một điều thứ ba làm giảm hạnh phúc của Kitô hữu là nhiều Kitô hữu không thực hành những gì Chúa Giêsu đã rao giảng. Họ không tha thứ cho người lân cận. Họ không phục vụ người lân cận. Họ không thực hành lòng biết ơn. Họ không phải là những người cầu nguyện. Tội lỗi là nguyên nhân chính gây ra bất hạnh cho Kitô hữu.

Có lẽ, đối với hầu hết mọi người, nguyên nhân có khả năng nhất dẫn đến hành vi sai trái là điều mà Thánh Tôma Aquinô gọi là "ý chí yếu kém". Tóm lại, tôi muốn nói về những cách chúng ta có thể phát triển sức mạnh ý chí của mình.

Nếu bạn muốn có nhiều ý chí hơn, các nhà tâm lý học thế tục khuyên bạn nên rèn luyện ý chí của mình. Nếu bạn Muốn mạnh mẽ hơn, bạn phải vận dụng cơ bắp. Trong truyền thống Kitô giáo, điều này được gọi là khổ hạnh.

Ý tưởng là làm điều gì đó hơi ngược lại với bản chất thông thường. Tôi không nói đến những điều cực kỳ căng thẳng như ngồi trên đỉnh cột trong ba mươi năm. Tôi đang nói đến những điều nhỏ nhặt mà chẳng ai để ý, chẳng hạn như không cho muối vào thức ăn hay bơ vào bánh mì. Ý chí của bạn sẽ được củng cố khi bạn sử dụng nó, cũng giống như cơ bắp của bạn được củng cố khi bạn sử dụng chúng.

Điều thứ hai mà các nhà tâm lý học khuyên để phát triển ý chí là hãy nhớ rằng không có cám dỗ nào tồn tại mãi mãi. Thực tế, bản chất của những cám dỗ không thể tồn tại mãi mãi. Tâm trí chúng ta vốn dĩ không ngừng nghỉ. Nếu bạn không đầu hàng, một cám dỗ sẽ rời khỏi sân khấu tâm trí bạn, và trước khi bạn kịp nhận ra, bạn sẽ nghĩ đến bóng đá Notre Dame hoặc bất cứ điều gì tiếp theo mà tâm trí bạn hướng đến.

Một lời khuyên cuối cùng cho những thử thách về sức mạnh ý chí: Hãy thử một thí nghiệm tư duy nhỏ. Đừng nghĩ về gấu trắng. Cứ thử xem. Đừng nghĩ về những con gấu trắng lớn, gấu trắng nhỏ hay gấu trắng ăn thịt những con gấu khác. Đừng nghĩ về gấu trắng. Cứ tiếp tục đi.

Cho đến giờ bạn đã làm được gì? Không nghĩ về điều gì đó thật khó phải không? Một sự cám dỗ tồi tệ giống như một con gấu trắng. Con gấu trắng di chuyển đến khu cắm trại. Giờ thì, có lẽ bạn đã biết là không nên cho gấu ăn. Tại sao? Nếu bạn cho gấu ăn, nó sẽ bỏ đi, nhưng chẳng mấy chốc sẽ quay lại với gấu mẹ, gấu bố, gấu con và gấu chú. Nếu bạn cho năm con gấu đó ăn, điều gì sẽ xảy ra? Chúng quay lại và bắt tất cả những con gấu khác, và giờ bạn có một buổi đoàn tụ gia đình. Vậy nên, cho gấu ăn là không hiệu quả. Khi bạn bị cám dỗ và đầu hàng trước sự cám dỗ đang nuôi dưỡng con gấu, mọi chuyện sẽ ngày càng tệ hơn cho bạn.

Mặt khác, điều khác mà bạn không muốn làm là đánh nhau với con gấu. Con gấu đến khu cắm trại của bạn, bạn ra đó với một cây gậy bóng chày, bạn đánh vào đầu nó, đó là một ý tưởng thực sự tồi tệ. Đừng đánh nhau với con gấu. Nếu bạn bị cám dỗ làm điều gì đó, việc tự nhủ "Đừng nghĩ về nó nữa" chẳng giúp ích được gì. "Hiệu ứng ngược mỉa mai" xảy ra khi việc cố gắng không nghĩ về điều gì đó lại khiến bạn nghĩ về chính điều mà bạn đang cố gắng không nghĩ đến.

Bạn nên làm gì? Nếu con gấu lang thang dưới khu cắm trại của bạn, hãy cứ mặc kệ nó. Nếu con gấu không được cho ăn và không bị đánh, con gấu sẽ tự đi lang thang. Vì vậy, đừng đầu hàng trước cám dỗ. Điều đó sẽ nhân lên cám dỗ. Đừng chống lại cám dỗ bằng cách nói "Tôi sẽ không nghĩ về nó". Nghĩ rằng "Tôi sẽ không nghĩ về nó" là một cách khác để nghĩ về nó - hiệu ứng ngược mỉa mai.

Vậy nên, trải nghiệm đau thương của tôi ở Washington D.C. đã dẫn đến một khám phá đáng ngạc nhiên về sự hài hòa giữa tâm lý học tích cực và đức tin Công Giáo. Cả hai đều dạy tầm quan trọng của việc phục vụ người khác, tha thứ cho người khác và biết ơn. Như Thánh Tôma Aquinô đã dạy, có một sự hài hòa giữa đức tin và lý trí.

Giờ tôi có thể nói với bạn rằng cuộc sống của tôi hiện tại thật hoàn hảo không? Không. Sự thật là chúng ta sẽ không bao giờ có được thiên đường trên trần gian. Tại sao? Thánh Tôma Aquinô cho rằng thiên đường là sự hoàn hảo của tình yêu và sự hiểu biết về Chúa. Ở dưới thế này, chúng ta không thể có được tình yêu và sự hiểu biết hoàn hảo về Chúa. Tình bạn của chúng ta với Chúa và với tha nhân luôn là một quá trình chưa hoàn thiện. Đó thực sự là một tin tốt, bởi vì một cách để kém hạnh phúc hơn nhiều so với bình thường là nếu bạn đặt quá nhiều kỳ vọng.

Chúng ta sẽ không có thiên đường trên trần gian, nhưng chúng ta có thể hướng tới một điều gì đó thực tế. Yêu Chúa hơn, yêu người lân cận hơn, biết ơn hơn, tha thứ hơn, thương xót người khác hơn và phục vụ người khác tốt hơn. Nếu chúng ta làm điều này với sự giúp đỡ của Chúa, chúng ta sẽ hạnh phúc hơn.

Bây giờ là năm 2025, và tôi đang bước vào Đền thờ Quốc gia Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội để cầu nguyện. Tôi đi qua nhiều nhà nguyện phụ cho đến khi tìm thấy bức tượng Đức Mẹ Sầu Bi. Tôi quỳ xuống. Tôi rơi nước mắt. Nhưng lần này tôi cầu nguyện trong tâm tình tạ ơn. Tôi cầu nguyện với lòng biết ơn vì niềm vui và nỗi đau đã dẫn đến sự trưởng thành, và cuối cùng là sự phục sinh cho một cuộc sống mới và kiến thức mới.

Bức ảnh này được tác giả chụp tại Vương cung thánh đường Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội


_____________________________________

Tiến sĩ Christopher Kaczor là nghiên cứu viên thỉnh giảng tại Trung tâm Đạo đức và Văn hóa de Nicola thuộc Đại học Notre Dame, Giáo sư Danh dự về Đổi mới Đời sống Trí thức Công Giáo tại Học viện Word on Fire của Đức Giám Mục Barron, và Giáo sư Triết học tại Đại học Loyola Marymount ở Los Angeles.