Trên The Catholic Thing, Thứ Năm, ngày 24 tháng 7 năm 2025, Stephen P. White cho hay: Tôi vừa hoàn thành hai tuần học về giáo huấn xã hội của Giáo hội với một nhóm thanh niên nam nữ tại Krakow, Ba Lan. Các sinh viên đến từ khắp nơi trên thế giới: chủ yếu là Hoa Kỳ và Ba Lan, nhưng cũng có cả Cameroon, Philippines, Phần Lan, Hungary, Ukraine và Slovakia.
Một trong những thách thức lớn nhất trong việc giảng dạy giáo huấn xã hội Công Giáo cho sinh viên là giúp họ hiểu rằng giáo huấn xã hội của Giáo hội không chỉ là một tập hợp những lời khuyên răn và cấm đoán về mặt đạo đức, mặc dù chắc chắn nó bao gồm cả hai. Như tôi luôn nhấn mạnh với sinh viên của mình, giáo huấn xã hội của Giáo hội mang tính mô tả trước khi mang tính quy định.
Nghĩa là, nếu chúng ta muốn hiểu Giáo hội nói gì về những gì chúng ta nợ nhau với tư cách là những con người, hoặc cách chúng ta nên sắp xếp cuộc sống chung của mình để phục vụ lợi ích chung, trước tiên chúng ta phải hiểu ý nghĩa của việc là một con người và ý nghĩa của việc là một phần của xã hội, và Giáo hội muốn nói gì về lợi ích chung.
Trong những năm qua, Giáo hội đã xác định những gì mà Giáo hội gọi là bốn "nguyên tắc vĩnh cửu" của giáo huấn xã hội Công Giáo: Phẩm giá con người, tình liên đới, tính phụ đới và lợi ích chung. Nếu chúng ta hiểu những nguyên tắc này và cách áp dụng chúng, thì giáo huấn xã hội Công Giáo sẽ trở thành một khuôn khổ mạnh mẽ để suy nghĩ về một số vấn đề gai góc nhất của cuộc sống đương thời. Hãy bắt đầu với những nguyên tắc chung và áp dụng chúng vào những chi tiết cụ thể của đời sống công cộng. Nghe có vẻ đơn giản, phải không?
Không hẳn vậy.
Việc biết những nguyên tắc cần hướng dẫn hành động đạo đức của chúng ta và áp dụng chúng rõ ràng là rất quan trọng, nhưng trong một thời đại được đánh dấu bởi chủ nghĩa hoài nghi và chủ nghĩa tương đối, bản thân những nguyên tắc này phải được xem xét. Ví dụ, Giáo hội nói về “phẩm giá con người” hay “luật tự nhiên” là một chuyện, và tín hữu có thể coi những điều này là hiển nhiên chỉ dựa trên thẩm quyền của Giáo hội. Nhưng việc có thể bảo vệ, biện minh và đề xuất các nguyên tắc này cho một thế giới không thừa nhận thẩm quyền của Giáo hội lại là chuyện khác.
Trong số những người Công Giáo, đôi khi có xu hướng coi thần học luân lý – bao gồm cả giáo huấn xã hội Công Giáo – như một dạng toán học luân lý, một thuật toán luân lý. Bắt đầu với các nguyên tắc cố định, cho vào một số nhập lượng (input) nào đó, và phép tính luân lý sẽ đưa ra những phán đoán đạo đức cụ thể. Toàn bộ quá trình được xem là diễn dịch, rút ra sự chắc chắn trong các phán đoán cụ thể trên cơ sở các nguyên tắc chung cố định.

Vấn đề ở đây không phải là coi một số nguyên tắc nào đó là cố định và đúng đắn, cũng không phải coi chân lý luân lý là điều chúng ta có thể biết, mà là tương đối ít quyết định đạo đức có thể được đưa ra chỉ dựa trên lý luận diễn dịch.
Hầu hết những gì chúng ta học được đều thông qua quy nạp: chúng ta bắt đầu bằng việc nhận thấy bản chất của sự vật và, dựa trên những chi tiết cụ thể đó, chúng ta rút ra những nguyên tắc chung. Cách đi đến chân lý này không phải lúc nào cũng tuân theo các quy luật của luận lý diễn dịch, nhưng nó vẫn có khả năng đi đến chân lý. Ví dụ, việc cho rằng lời nói của một người không đáng tin cậy nên được coi là không đáng tin cậy là một ngụy biện hình thức của logic diễn dịch. Nhưng tất cả chúng ta đều biết từ kinh nghiệm rằng những kẻ nói dối không đáng tin cậy.
Không nên tin tưởng những kẻ nói dối, ngay cả khi thừa nhận rằng tính cách của người đưa ra lập luận không quyết định giá trị luận lý của lập luận mà họ đưa ra. Một người hữu lý sử dụng cả lập luận diễn dịch và quy nạp bởi vì cả hai đều dẫn chúng ta đến chân lý. Nếu chúng ta chỉ dựa vào một trong hai phương pháp, chúng ta sẽ tự kìm hãm khả năng thừa nhận chân lý của chính mình.
Một người thầy vĩ đại của tôi từng nói rằng con người là "những kẻ thừa kế chân lý", ý của ông là khả năng tiếp nhận và nhận ra chân lý là điều đặc biệt nhất ở chúng ta. Đó gần như là định nghĩa về con người: Chúng ta được tạo dựng cho chân lý.
Hiểu chân lý về con người đòi hỏi chúng ta phải vận dụng toàn bộ lý trí của con người, cũng như hiểu luật tự nhiên đòi hỏi chúng ta phải chú ý kỹ đến bản chất của vạn vật. Hiểu giáo huấn xã hội của Giáo hội đòi hỏi chúng ta phải chú ý kỹ đến cách thức và lý do hình thành xã hội.
Hiểu giáo huấn của Giáo hội về chính trị hay kinh tế đòi hỏi nhiều hơn là chỉ áp dụng các nguyên tắc trừu tượng - dù những nguyên tắc đó có thể đúng. Nó đòi hỏi chúng ta phải chú ý kỹ đến cách thức đời sống chính trị và hoạt động kinh tế thực sự diễn ra trong đời sống con người và xã hội.
Ân sủng xây dựng và hoàn thiện tự nhiên. Vì vậy, chúng ta cần phải chú ý kỹ đến tự nhiên - đến cách mọi thứ đang diễn ra - để hiểu rõ hơn cách áp dụng các nguyên tắc khó khăn mà Giáo hội đã xây dựng qua hai thiên niên kỷ suy tư về Kinh Thánh và Truyền Thống.
Ngày nay, một thế hệ người Công Giáo trẻ đang tự mình khám phá (hoặc tái khám phá) phần lớn di sản của Giáo hội. Ví dụ, chúng ta thấy trong vô số các thừa tác vụ giáo lý và biện giáo, podcast, kênh YouTube, v.v. đã xuất hiện khắp nơi trên internet.
Vấn đề là nhiều người, đặc biệt là những người trẻ, đang học các nguyên tắc trong giáo huấn xã hội của Giáo hội nhưng liên tục tự hỏi làm thế nào để áp dụng chúng trong những hoàn cảnh cụ thể. Mong muốn có sự vững chắc là một điều tốt và cần được khuyến khích.
Nhưng sự vững chắc mà Giáo hội mang lại, phần lớn, nằm ở cách giáo huấn của Giáo hội phù hợp và phản ảnh thực tại của thế giới được tạo dựng và tình trạng sa ngã của con người. Do đó, Giáo hội không chỉ khẳng định chuyên môn về các nguyên tắc cần hướng dẫn chúng ta trong đời sống chung, mà còn khẳng định chuyên môn về chính nhân tính. Giáo hội nắm bắt đầy đủ những thực tại cụ thể của đời sống con người bởi vì Giáo hội nhìn nhận con người dưới ánh sáng trọn vẹn của sự Nhập thể.
Theo đó, không có hoàn cảnh cụ thể nào mà Giáo hội không thể mang sự hiện diện của Chúa Kitô Phục sinh vào. Cuối cùng, đây chính là bằng chứng và người bảo đảm chắc chắn nhất cho chân lý của giáo huấn xã hội của Giáo hội: Giáo hội mang đến mọi hoàn cảnh điều mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gọi là “câu trả lời hiện sinh thích hợp cho khát vọng trong mỗi trái tim con người về lòng tốt, chân lý và sự sống”, cụ thể là, Giáo hội mang đến chính Chúa Kitô.