Đức Ông Hans Feichtinger được thụ phong linh mục cho Giáo phận Passau vào năm 1998. Sau ba năm làm cha phó, ngài tiếp tục học lên cao, lấy bằng Thạc sĩ Cổ điển học tại Đại học Dalhousie ở Halifax thuộc Nova Scotia, Canada và bằng Tiến sĩ Thần học Giáo phụ tại Đại Học Augustinianum ở Rôma. Sau đó, ngài trở thành Viên chức tại Bộ Giáo lý Đức tin. Sau thời gian ở Vatican, ngài đã hoàn thành việc học và nghiên cứu để lấy bằng Tiến sĩ Triết học tại Khoa Triết học Dòng Tên ở Munich. Gần đây hơn, ngài phục vụ với tư cách là Tuyên úy Công Giáo tại Đại học Carleton ở St Margaret Mary ở Old Ottawa South. Tại Ottawa, ngài hiện là giáo sư thỉnh giảng trong khoa thần học tại Đại học Saint Paul và là Cha sở của Giáo xứ St George và St. Albertus Pfarrgemeinde.
Trên tờ First Things, ngài vừa có bài viết nhan đề “Bishop Barron, the German Church, and the Renewal of Faith”, nghĩa là “Đức Giám Mục Barron, Giáo hội Đức và Sự Canh Tân Đức Tin”. Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Với những học giả như thế này, điều gì có thể xảy ra với việc đào tạo các chủng sinh và các sinh viên thần học khác?
Trong thời đại chúng ta, và đặc biệt là ở Đức, những nỗ lực tìm kiếm sự cân bằng, trung lập hay khách quan - những phẩm chất mà Đức Cha Robert Barron thể hiện cả về mặt học thuật lẫn tính khí - bị coi là vô trách nhiệm, thậm chí là nguy hiểm. Thế giới của chúng ta là một thế giới của các đảng phái và sự phân cực, đến mức việc xây dựng cầu nối bị nhìn nhận với sự ngờ vực. Làm việc với bên kia là “giao dịch với ma quỷ”. Điều này đúng ngay cả trong Giáo hội Đức – và tình trạng này đã như vậy kể từ Công đồng Vatican II cùng những hậu quả không mong muốn của nó. Tôi đồng cảm với Đức Giáo Hoàng Lêô XIV, người mà công việc giáo hoàng của ngài thậm chí còn chưa bắt đầu.
Giáo hội cần khôi phục lại văn hóa tranh luận. Để đạt được điều đó, chúng ta cần sự hòa giải. Chúng ta cần sự phi phân cực. Nói cách khác, chúng ta cần những người như Đức Cha Robert Barron, người nhắc nhở chúng ta rằng Giáo hội, hiền thê của Chúa Kitô, là một định chế có sứ mệnh, không nên bị nhìn nhận qua lăng kính quyền lực hay chính trị. Chúng ta phải cảnh giác với chủ nghĩa tự luyến thần học và triết học, được khoác lên mình vỏ bọc “truyền thống” hay “cấp tiến”. Trong Giáo hội, Thiên Chúa phải là trung tâm, chứ không phải chúng ta—vì chính Thiên Chúa là Đấng lôi kéo chúng ta, và đôi khi thậm chí còn kéo chúng ta vượt ra khỏi chính mình, vươn lên từ chính mình, để hướng về Ngài, Đấng thánh thiện và siêu việt. Đó chính là ý nghĩa của sự giải thoát, tự do, tha thứ và cứu rỗi đích thực.
Những cuộc tranh luận luôn được ưa chuộng về phụng vụ, dù không phải lúc nào cũng có kết quả, nhưng vẫn thuộc về cốt lõi của Giáo hội, hơn hẳn chính trị thế tục. Chúng ta phải từ bỏ niềm tin rằng ơn cứu độ tùy thuộc vào loại phụng vụ mà người ta tham dự. Chúng ta cũng phải tránh gây áp lực cho các giám mục, như thể chỉ riêng các ngài mới có thể và nên chịu trách nhiệm sửa chữa mọi thứ. Tính công đồng đích thực đòi hỏi sự hợp tác có cấu trúc, hướng đến sự trung thành cao hơn và sứ mệnh hiệu quả hơn, là điều mà chỉ có thể được thực hiện cùng nhau. Đối với các giám mục và các cơ chế giáo phận của các ngài (đặc biệt là các giáo phận được tài trợ tốt), điều này có nghĩa là phải từ bỏ nhiều dự án và hoạt động thứ yếu và tập trung vào sứ mệnh chính: đó là hỗ trợ, đào tạo, giám sát, giáo dục và truyền cảm hứng cho đời sống và sứ mệnh của các giáo xứ, linh mục và nhà truyền giáo. Công cuộc truyền giáo diễn ra ở cấp cơ sở, nhưng cũng thông qua internet, như Đức Cha Barron đã chứng minh trong nhiều năm.
Công cuộc đổi mới Giáo hội đang diễn ra tốt đẹp, và các giám mục như Đức Cha Robert Barron đang dẫn đầu. Những cuộc biểu tình phản đối ngài cho thấy Giáo hội Đức còn lạc hậu đến mức nào về mặt này, vẫn còn cố thủ trong phiên bản Kitô giáo tưởng tượng của riêng mình, vốn đã không còn tồn tại. Tuy nhiên, đã có những dấu hiệu đổi mới: những người như Giám mục Stefan Oster của Passau, người đã ca ngợi và bảo vệ Đức Cha Barron. Những hạt giống đã có, mặc dù chúng vẫn chưa nở hoa đầy đủ. Hiện tại, Giáo hội Đức phần lớn vẫn còn xa lạ với công cuộc đổi mới và tái thiết mà Đức Cha Barron đại diện.
Ngay cả cố Giáo hoàng Phanxicô cũng không thể đạt được nhiều tiến bộ trong việc chống lại làn sóng thần học tự quy chiếu của Đức vốn đang tiếp tục nhấn chìm các thể chế của mình. Trong những năm gần đây, Tòa thánh đã phớt lờ Giáo hội Đức ở một mức độ đáng kể. Tôi bắt đầu tự hỏi liệu đây có phải là một lựa chọn chiến lược hay không. Tuy nhiên, tôi nghi ngờ rằng ảnh hưởng tích lũy của tất cả các giám mục Đức đối với Giáo hội toàn cầu nhỏ hơn nhiều so với tầm với của Đức Cha Robert Barron. Rõ ràng là Đức Cha Barron đã suy ngẫm sâu sắc hơn về những thách thức của việc truyền giáo trong thế giới đương đại và đã thể hiện sự táo bạo hơn trong việc công bố phúc âm. Bất chấp tất cả các nguồn lực tài chính và sức mạnh thần học của mình, Giáo hội Đức đã đạt được rất ít thành tựu khi nói đến việc truyền giáo thực sự. Giáo hội Đức không có khả năng thoát khỏi các phòng họp chỉ vang vọng các ý tưởng của chính mình và tháp ngà của giáo hội.
Sự thật là, công cuộc đổi mới Giáo hội đang diễn ra, bất kể hàng giáo phẩm Đức có tham gia hay không. Đã đến lúc các giám mục Đức phải thức tỉnh. Truyền giáo không phải là một nỗ lực tập trung từ trên xuống, một thứ gì đó phát triển mạnh nhờ sự quản trị kỹ trị hoặc bao gồm việc thực hiện các chương trình của giáo phận hoặc Vatican. Thay vào đó, mỗi mục vụ và cấp bậc phẩm trật—giám mục, linh mục, giáo dân—phải làm phần việc của mình. Việc thực hiện không cần phải hoàn hảo; Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn. Nhưng vì tất cả chúng ta đều là những tạo vật sa ngã và dễ mắc sai lầm và tội lỗi, nên nỗ lực này sẽ cần sự giám sát, ranh giới, sự thanh tẩy—và đây chính là lúc hàng giáo phẩm và huấn quyền bước vào. Điều này sẽ đòi hỏi rất nhiều công sức, cũng như rủi ro, nhưng chúng ta không được sợ cả hai.
Triết gia Josef Pieper đã dự đoán trước thời điểm đổi mới này của Giáo hội. Hiện tại, Giáo hội đang cho thấy nhiều hứa hẹn, mang lại sự sáng suốt và khích lệ. Nếu nhận được sự đồng hành và giám sát tốt đẹp, rộng lượng, sáng suốt và tự tin từ cấp bậc lãnh đạo, rất có thể Giáo hội sẽ phát triển mạnh mẽ và đơm hoa kết trái vượt xa mong đợi của chúng ta.
Nhưng có một điều cũng rõ ràng: Sự đổi mới đang trỗi dậy trong Giáo hội mang tính truyền thống hơn nhiều so với những gì nhiều người tưởng tượng, bắt nguồn từ sự hiểu biết rằng người ta chỉ có thể thực sự “tông đồ” và “truyền thống” bằng cách trung thành và tích cực rao giảng phúc âm. Sự đổi mới đích thực nằm ở việc truyền bá tin mừng về Chúa và Đấng Cứu Thế, chứ không phải bằng cách uốn nắn người khác theo tầm nhìn cá nhân, vị kỷ của chúng ta. Pieper, và Đức Cha Barron, người kế vị của ông, nói một ngôn ngữ khác, ngôn ngữ của tình yêu Chúa Kitô. Đó là sự tiến bộ thực sự và lòng trung thành thực sự. Quỹ Josef Pieper đã đúng khi trao giải thưởng cho Đức Cha Robert Barron và không chịu khuất phục trước áp lực thế gian.
Source:First Things