1. Đức Giáo Hoàng Lêô XIV được Tạp chí Time vinh danh là Những người có ảnh hưởng nhất trong lĩnh vực Trí tuệ Nhân tạo

Tạp chí Time đã đưa Đức Giáo Hoàng Lêô XIV vào danh sách “Những người có ảnh hưởng nhất thế giới trong lĩnh vực Trí tuệ Nhân tạo” năm 2025 vào Thứ Năm, ngày 28 tháng 8, đồng thời ca ngợi sự tập chú của Đức Giáo Hoàng vào các vấn đề đạo đức liên quan đến kỹ thuật mới nổi này.

Tạp chí đã liệt kê 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, gọi tắt là AI theo bốn hạng mục: nhà lãnh đạo, nhà đổi mới, người định hình và nhà tư tưởng. Theo Time, Đức Lêô XIV nằm trong số 25 nhà tư tưởng có ảnh hưởng nhất trong lĩnh vực này.

Trong một bài viết đăng trên tạp chí, phóng viên công nghệ Andrew Chow của Time lưu ý rằng Đức Lêô XIV chọn danh hiệu Giáo hoàng của mình một phần dựa trên nhu cầu của Giáo hội trong việc giải quyết các vấn đề đạo đức liên quan đến AI và viết rằng Đức Thánh Cha “đã thực hiện lời thề của mình”.

Khi Đức Giáo Hoàng gặp gỡ Hồng Y đoàn hai ngày sau khi nhậm chức, ngài cho biết ngài lấy danh hiệu này để vinh danh Đức Giáo Hoàng Lêô XIII, người đã “giải quyết vấn đề xã hội trong bối cảnh cuộc cách mạng kỹ nghệ vĩ đại đầu tiên”.

Đức Leo XIII, trị vì từ năm 1878 đến năm 1903, đã ban hành thông điệp Rerum Novarum, thảo luận về nhu cầu của giai cấp công nhân trong bối cảnh cuộc cách mạng kỹ nghệ. Bản văn bản tránh xa cả chủ nghĩa xã hội lẫn quyền lực thị trường không bị kiềm chế, lựa chọn sự hợp tác giữa các lợi ích cạnh tranh, tập trung vào phẩm giá con người.

Đức Giáo Hoàng Lêô XIV hiện tại cho biết ngài chọn danh hiệu này vì “những phát triển trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo”, mà ngài nhận thấy đặt ra “những thách thức mới cho việc bảo vệ phẩm giá, công lý và lao động của con người”.

Bài viết trên tạp chí Time lưu ý rằng Vatican đã tổ chức Hội nghị về Trí tuệ Nhân tạo, Đạo đức và Quản trị Doanh nghiệp vào tháng 6, và tuyên bố: “Bài phát biểu quan trọng của Đức Lêô XIV đã nhấn mạnh tiềm năng của AI như một lực lượng hướng đến điều tốt đẹp, đặc biệt là trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và khám phá khoa học”.

Tuy nhiên, ngài nói thêm rằng “AI 'nêu ra những câu hỏi đáng lo ngại về những hậu quả có thể xảy ra đối với sự cởi mở của nhân loại đối với chân lý và cái đẹp, đối với khả năng đặc biệt của chúng ta trong việc nắm bắt và giải quyết thực tại'. Và ngài cảnh báo rằng kỹ thuật này có thể bị lạm dụng vì ‘lợi ích cá nhân gây tổn hại đến người khác, hoặc tệ hơn, kích động xung đột và gây hấn.’”

Những nhân vật khác trong danh sách của Time bao gồm nhà sáng lập xAI Elon Musk, nhà sáng lập Meta Mark Zuckerberg, CEO Nvidia Jensen Huang, Thượng nghị sĩ Marsha Blackburn và Thượng nghị sĩ Chris Murphy.

Đây là danh sách thường niên thứ ba do Time công bố, tập trung vào những người có ảnh hưởng nhất trong lĩnh vực AI.

Tổng biên tập Time Sam Jacobs viết về việc công bố danh sách này: “Chúng tôi đã công bố danh sách này vào năm 2023, sau khi OpenAI phát hành ChatGPT, thời điểm nhiều người nhận thức được tiềm năng của AI trong việc cạnh tranh và vượt qua khả năng của con người”.

Ông nói thêm: “Mục tiêu của chúng tôi là cho thấy hướng đi của AI sẽ được quyết định không phải bởi máy móc mà bởi con người — những nhà đổi mới, người ủng hộ, nghệ sĩ và tất cả những ai có lợi ích trong tương lai của kỹ thuật này.... Danh sách năm nay càng khẳng định sự tập chú của chúng tôi vào con người.”

2. Tiến sĩ George Weigel: Bội giáo trong Giáo Hội Công Giáo Đức

Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Bàn về những sai lầm của Tiến Trình Công Nghị Đức, ông có bài viết trên tờ Wall Street Journal nhan đề “Apostasy in Germany’s Catholic Church”, nghĩa là “Bội giáo trong Giáo Hội Công Giáo Đức”.

Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Trong 5 năm qua, Công Giáo thể chế ở Đức đã đi theo con đường “Synodale Weg”, hay “Tiến trình Công nghị”: một hình thức tự thành lập, và cấp tiến của hội đồng lập pháp giáo hội, mặc dù có sự hiện diện của các giám mục Đức, nhưng chủ yếu bao gồm giáo dân Công Giáo. Con đường đó đã đi đến hồi kết vào ngày 10 tháng 3, 2023 khi Tiến trình Công nghị thông qua một loạt nghị quyết sẽ thay đổi căn bản cấu trúc quyền lực trong giáo hội Đức bằng cách hạn chế quyền bính cai quản của các giám mục. Đồng thời, với đa số áp đảo - bao gồm đa số các giám mục - Tiến trình Công nghị đã quyết định viết lại đạo đức tính dục và việc thực hành bí tích của Giáo Hội Công Giáo bằng cách cho phép ban phước chính thức, mang tính phụng vụ cho các cặp đồng giới và kêu gọi phụ nữ được nhận vào chức thánh.

Tất cả những điều này làm tôi nhớ đến lời nhận xét của Đức Giáo Hoàng Phanxicô với Giám mục George Bätzing, chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức, vào tháng 6 năm 2022: Vị Giáo hoàng quá cố đã nhận xét rằng nước Đức đã có một Giáo Hội Tin lành và “chúng ta không cần thêm một Giáo Hội Tin lành nữa”.

Khi Đường lối Thượng Hội Đồng, mà một số người ở Rôma gọi là “Đường lối Tự sát”, thu hút sự chú ý của người Công Giáo trên toàn thế giới, nhiều người cho rằng Công Giáo Đức đang hướng đến “ly giáo” – tức là một sự rạn nứt về thể chế với Rôma. Điều đó không hoàn toàn đúng. Ly giáo thường do các vấn đề liên quan đến phẩm trật giáo hội. Chẳng hạn, Giáo Hội Công Giáo tin rằng các giáo hội Chính thống Đông phương là “ly giáo” vì họ không chấp nhận quyền tối thượng và thẩm quyền phổ quát của Đức Giáo Hoàng. Những gì đang diễn ra ở Đức thì khác – nó tương tự như cuộc Cải cách Luther hồi thế kỷ 16, đó chính là sự bội giáo.

Kẻ bội giáo phủ nhận chân lý mà tác giả Thư Giuđa trong Tân Ước gọi là “đức tin đã được truyền lại cho dân thánh một lần là đủ” (Gđ 1:3). Như Công đồng Vatican II đã dạy, đức tin đó được Kinh Thánh và truyền thống định nghĩa, được giải thích một cách có thẩm quyền bởi huấn quyền của Giáo hội như Đức Giáo Hoàng, hay một công đồng chung bao gồm Đức Giáo Hoàng và hàng giám mục thế giới, hay giáo huấn liên tục của Giáo hội qua thời gian. Bộ Giáo luật quy định rõ ràng rằng những vấn đề đã được xác định của đức tin Công Giáo và thực hành luân lý phải được tin tưởng và sống như thế; nếu không, sẽ là bội giáo và bị vạ tuyệt thông.

Có vẻ như đó là cách mô tả chính xác về tình trạng của Giáo hội tại Đức khi họ theo đuổi Con đường Thượng hội đồng.

Không có khả năng Công Giáo Đức theo thể chế quan liêu cao độ bị thống trị bởi Tiến trình Công Nghị có thể đại diện cho những người Công Giáo chính thống, tham dự Thánh lễ của đất nước. Thật vậy, bộ máy quan liêu Công Giáo Đức rộng lớn, sử dụng hàng trăm ngàn người nhờ nguồn tài chính do Kirchensteuer Đức, hay thuế nhà thờ có từ thế kỷ 19, cung cấp, từ lâu đã là hang ổ của “Công Giáo Loãng”: một thứ Công Giáo giống với Tin lành tự do ở chỗ đó là một hình ảnh mờ nhạt của giáo hội thời đại hiện tại. Dự án này hiện đã có một bước ngoặt mới, khi các nhà lãnh đạo của Tiến trình Công Nghị khẳng định rằng những gì họ coi là cải cách cấu thành một phản ứng thiết yếu đối với cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục của giáo sĩ trong giáo hội Đức, bất chấp thực tế là Công Giáo Đức theo thể chế đã thúc đẩy những “cuộc cải cách” này từ rất lâu trước khi cuộc khủng hoảng lạm dụng xuất hiện trong phạm vi công cộng.

Vấn đề cốt lõi trong tất cả những điều này là: Liệu mặc khải của Thiên Chúa có thực sự là những chân lý bất biến theo thời gian hay không? Nói cách khác, liệu nhân học Kinh Thánh có dạy chúng ta những chân lý cơ bản và bất di bất dịch về thân phận con người, là điều mà Công đồng Vatican II đã khẳng định một cách mạnh mẽ hay không? Hay, như nhiều người trong Tiến trình Công Nghị cho rằng, ý thức hệ giới tính của thế kỷ 21 và sự nổi dậy của cộng đồng LGBTQ có khả năng sửa chữa được những sai lầm mà Kinh Thánh và thẩm quyền giáo huấn của Giáo hội đã mắc phải trong hơn hai thiên niên kỷ qua?

Thậm chí có thể nói đơn giản hơn là như thế này: Liệu chúng ta có thể hiểu rõ hơn cả Chúa về điều gì tạo nên sự thịnh vượng, hạnh phúc và cuối cùng là phúc lành cho con người hay không? Các nhà thần học Công Giáo Đức, vốn hiếm khi được biết đến với sự khiêm nhường, đã gợi ý trong nhiều thập niên rằng câu trả lời là có. Câu trả lời đó, chắc chắn là sự bội giáo, giờ đây đã được đại đa số các giám mục Đức xác nhận.

Cuộc khủng hoảng mà Giáo hội Đức đang gây ra cho Công Giáo không chỉ là về mặt giáo lý và thần học—mà còn thực tế và có thể sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Nhờ thuế nhà thờ, Giáo hội Đức vô cùng giàu có. Đáng khen là họ đã dùng phần lớn tài sản đó để hỗ trợ các giáo hội trẻ ở Thế giới thứ Ba. Phi Châu cận Sahara là khu vực tăng trưởng mạnh nhất của Công Giáo, một phần nhờ vào hoạt động bác ái của các tổ chức Công Giáo Đức. Tuy nhiên, Giáo hội Phi Châu hoàn toàn không quan tâm đến chương trình nghị sự văn hóa và tình dục thức tỉnh của Tiến Trình Công Nghị.

Vì vậy, khi chương trình nghị sự đó giúp xác định Cơ Mật Viện bầu giáo hoàng tiếp theo và Thượng hội đồng giám mục thế giới họp tại Rôma vào tháng 10, 2023 chúng ta đã chứng kiến những pha kịch tính và trớ trêu, khi các giám mục từ các Giáo Hội trẻ năng động nhất của Công Giáo thách thức các đại diện của đất nước có lòng bác ái đã giúp nuôi dưỡng các nhà lãnh đạo Công Giáo mới, những người không thấy có bất cứ lý do gì để bắt chước chủ nghĩa Tin lành tự do đang hấp hối.


Source:WSJ

3. Nghiên cứu: Tỷ lệ vào bệnh viện liên quan đến sức khỏe tâm thần tăng gấp đôi ở phụ nữ phá thai

Một nghiên cứu gần đây cho thấy tỷ lệ vào bệnh viện liên quan đến sức khỏe tâm thần ở phụ nữ phá thai tăng gấp đôi so với phụ nữ sinh con.

Nghiên cứu, được công bố vào mùa hè này trên Tạp chí Nghiên cứu Tâm thần, đã so sánh tỷ lệ phá thai với các trường hợp mang thai khác tại các bệnh viện ở Quebec, Canada, từ năm 2006 đến năm 2022, theo dõi dữ liệu về phụ nữ trong vòng 17 năm.

Nghiên cứu, so sánh hơn 1.2 triệu phụ nữ sinh con tại các bệnh viện ở Quebec với hơn 28,000 phụ nữ phá thai, cho thấy “tỷ lệ vào bệnh viện liên quan đến sức khỏe tâm thần cao hơn sau khi phá thai so với các trường hợp mang thai khác.”

Nghiên cứu cho thấy phá thai có liên quan đến một số khó khăn về sức khỏe tâm thần, bao gồm vào bệnh viện do rối loạn tâm thần, rối loạn sử dụng chất gây nghiện và các nỗ lực tự tử.

Mối liên hệ này đặc biệt cao đối với những phụ nữ dưới 25 tuổi tại thời điểm phá thai, cũng như đối với những bệnh nhân đã mắc bệnh tâm thần từ trước.

Nguy cơ vào bệnh viện vì sức khỏe tâm thần cao nhất trong vòng năm năm sau khi phá thai. Theo nghiên cứu, nguy cơ giảm dần sau thời điểm năm năm, nhưng chỉ sau 17 năm, nguy cơ mới bắt đầu “giống” với những thai kỳ đủ tháng.

Tessa Cox, cộng tác viên nghiên cứu cao cấp tại Viện Charlotte Lozier, cho biết nghiên cứu này “đặc biệt mạnh mẽ”.

Cox cho biết: “Nghiên cứu gần đây này của Canada, nơi có dữ liệu chăm sóc sức khỏe toàn diện hơn Hoa Kỳ, bổ sung vào một khối lượng nghiên cứu ngày càng tăng cho thấy phá thai có thể gây hại cho sức khỏe tâm thần của phụ nữ”.

Bà nói với CNA: “Kỹ nghệ phá thai thường hạ thấp bằng chứng, vì vậy việc nghiên cứu mới này bao gồm hơn một triệu phụ nữ và đã tính đến các yếu tố sức khỏe tâm thần trước đó cùng các yếu tố liên quan khác khiến nó trở nên đặc biệt mạnh mẽ”.

Cox nói: “Phụ nữ xứng đáng được biết tất cả sự thật — và phụ nữ cũng như nam giới đã bị tổn thương bởi phá thai cần biết rằng sự tha thứ và chữa lành là điều có thể”.

Một học giả khác gọi nghiên cứu này là “mạnh mẽ”, lưu ý rằng nó đã theo dõi dữ liệu trong một khoảng thời gian dài và có các hằng số giúp thông tin chính xác hơn.

Michael New, học giả cao cấp tại Viện Charlotte Lozier và phó giáo sư thực hành tại Đại học Công Giáo Hoa Kỳ, lưu ý rằng nghiên cứu “cung cấp bằng chứng thống kê mạnh mẽ cho thấy phá thai làm tăng nguy cơ mắc một loạt các vấn đề sức khỏe tâm thần”.

New cho biết nghiên cứu này có nhiều điểm mạnh, bao gồm quy mô mẫu lớn, cách thức theo dõi phụ nữ trong một khoảng thời gian dài và cách các tác giả phân tích dữ liệu trong một khoảng thời gian dài.

Phương pháp này rất hiếm, theo nghiên cứu, lưu ý rằng “các nghiên cứu quy mô lớn dựa trên dân số với thời gian theo dõi dài hạn tuy hiếm nhưng lại cần thiết để hiểu được nhu cầu sức khỏe tâm thần của phụ nữ sau khi phá thai”.

New gọi kết quả của nghiên cứu này là “mạnh mẽ”, đồng thời lưu ý rằng nghiên cứu này kiên định trước những lời chỉ trích mà các nghiên cứu tương tự đã phải đối diện.

Nghiên cứu này là một trong số ít nghiên cứu đã tìm hiểu mối tương quan giữa các thách thức về sức khỏe tâm thần và phá thai.

New nói: “Mặc dù các nghiên cứu khác phát hiện ra rằng phụ nữ phá thai có khả năng mắc các rối loạn sức khỏe tâm thần, nhưng những người chỉ trích các nghiên cứu này lại lập luận rằng phụ nữ có vấn đề về sức khỏe tâm thần có nhiều khả năng phá thai ngay từ đầu”.

Ông nói về nghiên cứu của Canada: “Điều quan trọng nhất là nghiên cứu này vẫn không thay đổi cho dù những phụ nữ trong nghiên cứu đã từng vào bệnh viện vì các vấn đề sức khỏe tâm thần trong quá khứ hay chưa”.


Source:Catholic News Agency

4. Cơ quan nhà nước đệ đơn kiện để cấm giáo hội được Mạc Tư Khoa hậu thuẫn ở Ukraine

Cơ quan Nhà nước về Dân tộc chính trị và Tự do lương tâm của Ukraine đã đệ đơn kiện để chấm dứt hoạt động của Giáo hội Chính thống giáo Ukraine thuộc Tòa Thượng phụ Mạc Tư Khoa (UOC-MP), Interfax-Ukraine đưa tin vào ngày 2 tháng 9.

Nếu tòa án ra phán quyết có lợi cho vụ kiện, điều đó không có nghĩa là các giáo xứ riêng lẻ sẽ bị xóa bỏ. Họ vẫn được tự do lựa chọn gia nhập Chính Thống Giáo Ukraine hoặc gia nhập một giáo hội khác, nhà lãnh đạo cơ quan, Viktor Yelenskyi, phát biểu tại cuộc họp báo hôm Thứ Tư, 03 Tháng Chín.

Ukraine đã cáo buộc UOC-MP có quan hệ và cảm tình với Nga trong suốt cuộc chiến tranh toàn diện. Giáo hội này không nên bị nhầm lẫn với Giáo hội Chính thống giáo tự trị của Ukraine, vốn hoàn toàn tách biệt với Mạc Tư Khoa.

Tháng 8 năm ngoái, Ukraine đã thông qua luật cấm các hoạt động của các tổ chức tôn giáo liên quan đến Giáo hội Chính thống giáo Nga, một tổ chức được coi là có mối liên hệ chặt chẽ với nhà nước Nga và ủng hộ cuộc xâm lược Ukraine.

Cơ quan Nhà nước về Dân tộc chính trị và Tự do lương tâm đã mở cuộc điều tra về UOC-MP vào đầu năm nay và kết luận vào tháng 7 rằng giáo hội này có liên kết với giáo hội Nga.

UOC-MP đã tuyên bố cắt đứt quan hệ với giáo hội Nga sau khi cuộc xâm lược toàn diện nổ ra, một động thái mà những người chỉ trích cho rằng không có tác dụng về mặt pháp lý hoặc thực tế vì việc bổ nhiệm hàng giáo phẩm vẫn do Thượng Phụ Kirill kiểm soát. Kirill là người ủng hộ nồng nhiệt cuộc xâm lược Ukraine của Vladimir Putin.

Cơ quan nhà nước Ukraine đã đệ đơn kiện vào ngày 29 tháng 8, mặc dù Yelenskyi cho biết vẫn chưa rõ quá trình xét xử có thể kéo dài bao lâu.

Một số giáo sĩ UOC-MP đã bị cáo buộc hỗ trợ và hợp tác với Nga kể từ khi cuộc chiến toàn diện nổ ra. Vào tháng 7, Cơ quan An ninh Ukraine, gọi tắt là SBU đã đình chỉ quyền công dân của Đức Tổng Giám Mục Onufrii của Kyiv, giáo chủ của giáo hội được Mạc Tư Khoa hậu thuẫn, với lý do ông không khai báo rằng mình đã có hộ chiếu Nga vào năm 2002.

Theo Yelenskyi, vụ kiện không liên quan đến mối liên hệ có thể có giữa các thành viên giáo sĩ riêng lẻ và các cơ quan tình báo Nga.

“Nếu có mối liên hệ giữa một số linh mục với cơ quan tình báo Nga hoặc lực lượng Nga... thì những trường hợp này sẽ được xem xét riêng”, ông nói.

Tưởng cũng nên biết thêm: Ukraine không phải là quốc gia duy nhất cấm Giáo Hội Chính thống Ukraine trực thuộc Tòa Thượng Phụ Mạc Tư Khoa, Estonia đã cấm Giáo Hội này từ năm ngoái, 2024.


Source:Kyiv Independent