Và với một thế hệ phụ nữ Công Giáo trẻ mới đang cố gắng điều hướng một xã hội ngày càng bị đánh dấu bởi cả chủ nghĩa duy nữ cấp tiến một mặt và một 'manosphere' (*) phản động mặt khác, đây là một cuộc tranh luận mà mức độ rủi ro cũng không thể phủ nhận là cao.
Đó là nhận định của Jonathan Liedl, ngày 3 tháng 4 năm 2025 trên tạp chí National Catholic Register:

Khi Đức Gioan Phaolô II kêu gọi một "chủ nghĩa duy nữ mới" trong thông điệp Evangelium Vitae (Tin mừng sự sống) năm 1995 của ngài, một chủ nghĩa bác bỏ "cám dỗ bắt chước các mô hình 'thống trị của nam giới'" và thay vào đó "khẳng định thiên tài thực sự của phụ nữ", ngài có thể biết rằng sự khiêu khích của ngài sẽ thúc đẩy sự tập trung nghiêm túc vào phẩm giá của phụ nữ và vị trí của họ trong Giáo hội và xã hội.
Nhưng điều mà vị thánh tương lai có thể không lường trước được là ngài cũng đang bắt đầu một cuộc tranh luận nội bộ Công Giáo về giá trị của chủ nghĩa duy nữ, mà 30 năm sau, dường như chỉ đang nóng lên.
Cuộc tranh luận đó đã lan ra công chúng vào tháng trước dưới hình thức trao đổi quan điểm có phần gây tranh cãi giữa ba nữ trí thức Công Giáo trên tờ The Wall Street Journal (WSJ).
Học giả luật Erika Bachiochi đã bắt đầu mọi thứ vào ngày 13 tháng 3 bằng cách mô tả Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là "giáo hoàng theo chủ nghĩa duy nữ" — một danh hiệu mà vị Giáo hoàng này đã tự gọi mình ít nhất một lần. Bachiochi lập luận rằng sự trỗi dậy hiện tại của những người có ảnh hưởng Công Giáo "bị tiêm thuốc đỏ" như Timothy Gordon luôn thúc đẩy các giải trình về sự thấp kém của phụ nữ để phản ứng lại chủ nghĩa duy nữ cấp tiến đã vi phạm giáo lý uyên bác của cố Giáo hoàng về phẩm giá bình đẳng của phụ nữ, một điều vẫn cần được áp dụng.
Đáp lại, triết gia Carrie Gress, đồng nghiệp của Bachiochi tại Trung tâm Chính sách Công và Đạo đức, đã lập luận vào ngày 20 tháng 3 rằng Đức Gioan Phaolô II đã sử dụng các thuật ngữ như "chủ nghĩa duy nữ" một cách hạn chế và chắc chắn không theo cách phù hợp với định nghĩa cốt lõi của phong trào duy nữ về "quyền tự chủ của phụ nữ".
Sự chỉ trích Bachiochi tiếp tục vào ngày 24 tháng 3, khi nhà thần học Margaret McCarthy cho rằng bà đã "giản lược lời dạy của vị Giáo hoàng thành những lời quảng cáo về 'bình đẳng' trừu tượng cho phù hợp với sự sắp xếp thống trị của những người đàn ông và đàn bà có thể hoán đổi cho nhau về mặt xã hội".
Hai ngày sau, cuộc tranh chấp đã trở thành vấn đề nổi cộm khi bắt đầu một hội nghị kéo dài ba ngày tại Đại học Notre Dame về lời dạy của Giáo hội đối với phụ nữ, nơi Bachiochi lên tiếng. Một số người tham dự bày tỏ sự thất vọng khi cuộc tranh chấp đã lan ra trước công chúng, trong khi một lời kêu gọi ngầm rõ ràng là hai bên hãy làm hòa được đưa ra qua danh sách các học giả nữ Công Giáo.
Đối với nhà thần học Abigail Favale, người tổ chức hội nghị Notre Dame, thì việc những người phụ nữ Công Giáo nghiêm túc tham gia vào trò chơi kéo co về lời dạy của Đức Gioan Phaolô II không phải là điều gì đó quá ngạc nhiên hay không mong muốn.
“Tôi nhiều tuổi hơn khái niệm ‘thiên tài nữ tính’”, Favale, 41 tuổi, nói khi nhắc đến thuật ngữ mà Đức Giáo Hoàng lần đầu sử dụng trong tông thư Mulieris Dignitatem (Về phẩm giá và ơn gọi của phụ nữ) năm 1988 để mô tả những thiên phú độc đáo của phụ nữ. “Tôi nghĩ rằng Đức Gioan Phaolô II đã mở ra những ý tưởng, nhưng Giáo hội chưa nhất thiết khai triển chúng một cách đầy đủ. Vì vậy, vẫn còn rất nhiều công việc đáng lưu ý cần phải làm”.
Và Favale cho rằng công việc đó “chỉ thực sự có thể diễn ra nếu có những đề xuất và phản đề xuất” được đưa ra.
Nhưng nếu cuộc trao đổi của Walt Sreet Journal có bất cứ dấu hiệu nào, thì thao tác đó không chỉ mang tính học thuật. Vì nó trực tiếp chạm đến cảm thức bản thân của phụ nữ Công Giáo, nên nó cũng không thể không mang tính bản thân sâu sắc đối với những người liên quan.
Và với một thế hệ phụ nữ Công Giáo trẻ mới đang cố gắng điều hướng một xã hội ngày càng bị đánh dấu bởi cả chủ nghĩa duy nữ cấp tiến một mặt và một “manosphere (*)” phản động mặt khác, thì đây là một cuộc tranh luận mà trong đó rủi ro cũng không thể phủ nhận là rất cao.
Chủ nghĩa duy nữ và Công Giáo
Cuộc tranh luận đó, một phần, là về tu từ, đặt câu hỏi liệu người Công Giáo có nên sử dụng thuật ngữ "chủ nghĩa duy nữ" trong hoạt động ủng hộ của họ để công nhận đầy đủ hơn phẩm giá của phụ nữ ngày nay hay không.
Các thành viên của một ban hướng dẫn tại hội nghị Notre Dame, bao gồm Bachiochi và Favale, nhìn chung đều trung lập về câu hỏi này, tạo ra ấn tượng chung rằng những từ như "chủ nghĩa duy nữ" có thể được sử dụng khi chúng giúp xây dựng cầu nối với những người khác và bỏ đi khi chúng không giúp ích.
Nhưng theo nghĩa sâu sắc hơn, những cuộc tranh cãi hiện tại của Công Giáo về chủ nghĩa duy nữ liên quan nhiều hơn đến bản chất của khái niệm này hơn là cách sử dụng hạn từ này.
Tóm lại, tranh chấp có thể được mô tả là sự bế tắc giữa quan điểm cho rằng chủ nghĩa duy nữ "thối rữa từ gốc rễ", như nhà bình luận chính trị Công Giáo Matthew Walsh từng khẳng định, và quan điểm cho rằng phong trào duy nữ xuất hiện vì những lý do chính đáng và có những yếu tố đáng được cứu vãn.
Bachiochi đưa ra quan điểm sau. Trong công trình học thuật của mình, bao gồm một bài báo gần đây cho Heritage Foundation, bà lập luận rằng một số nhà tư tưởng duy nữ quan trọng trong thời kỳ trước chiến tranh nội chiến Hoa Kỳ đã được thúc đẩy sâu sắc bởi niềm tin Kitô giáo của họ. Ví dụ, bà lưu ý rằng các nhà tư tưởng duy nữ thế kỷ 19 như Sarah Grimké tự cho rằng họ đang sửa chữa một sự xuyên tạc bản dịch của sách Sáng thế 3:16, đã hiểu sai lời tiên tri rằng chồng của Eva sẽ cai trị bà do tội lỗi thành một mệnh lệnh cho Adam phải làm như vậy.
Nhưng Bachiochi lập luận rằng động cơ Ki-tô giáo của những nhà tư tưởng duy nữ "làn sóng đầu tiên" quan trọng này đã bị "dẹp bỏ khỏi ký ức [memory-holed] bởi lịch sử xét lại của những người theo chủ nghĩa tiến bộ về nguồn gốc của chủ nghĩa duy nữ, thay vào đó, họ nhấn mạnh vào những nhân vật cấp tiến hơn. Đổi lại, Bachiochi cho rằng những người bảo thủ từ chối mọi phiên bản của chủ nghĩa duy nữ, và không chỉ những phiên bản sau này chấp nhận cuộc cách mạng tình dục, đã tin vào lời giải thích của những người theo chủ nghĩa tiến bộ "một cách hoàn toàn [hook, line and soaker]".
Tuy nhiên, Gress không bị thuyết phục bởi cách tiếp cận này. Bà cho rằng, "về bản chất", chủ nghĩa duy nữ phá vỡ cuộc sống gia đình và làm xói mòn đức tin Công Giáo, và trước đây bà đã viết về cách một số nhà duy nữ đầu tiên bị ảnh hưởng bởi bí ẩn (occult). Bà gợi ý rằng những người Công Giáo nên hướng đến truyền thống của riêng họ để tìm cách tiến lên thay vì một hệ tư tưởng thế tục.
“Những gì bắt đầu cách đây vài thập niên như một nỗ lực rất có thiện chí nhằm giúp làm rõ giáo lý của Giáo hội thông qua ngôn ngữ duy nữ đã không xảy ra”, bà nói với Register qua email, nhấn mạnh tới tỷ lệ cao tránh thai và phá thai của phụ nữ Công Giáo.
“Vấn đề là hệ tư tưởng của chủ nghĩa duy nữ quá mạnh mẽ, đến nỗi bất cứ nỗ lực nào nhằm điều chỉnh nó đều bị kéo trở lại vòng xoáy của nó trừ khi người ta vẫn cảnh giác cao độ để định nghĩa nó khác với [truyền thống đó]”, Gress nói. “Kết quả là, từ này đã mất đi mọi ý nghĩa rõ ràng ngoài cách sử dụng thế tục”.
Tuy nhiên, vấn đề đối với Bachiochi là việc bác bỏ hoàn toàn chủ nghĩa duy nữ sẽ bỏ qua tác động có thể xảy ra của phong trào rộng lớn này đối với sự phát triển học thuyết liên quan của Giáo hội. Như bà chỉ ra, quan điểm của Thánh Thomas Aquinas rằng phụ nữ thiếu lý trí, ví dụ, được thấy trong cách diễn giải 1 Timôtê 2 quá phụ thuộc vào Aristotle, đã từng là một quan điểm có ảnh hưởng trong Giáo hội. Nhưng suy nghĩ của Giáo hội về chủ đề này đã trưởng thành — phần lớn, bà khẳng định, là do sự tham gia vào phong trào duy nữ.
"Người ta không trân trọng cách bạn đi từ Thomas Aquinas đến Gioan Phaolô II", bà nói. "Người ta không trân trọng nhu cầu về một thứ gì đó giống như chủ nghĩa duy nữ ban đầu".
Để chứng minh cho mối liên hệ này, Bachiochi đã chia sẻ một tài liệu của Sơ Sara Butler, một Nữ tu Truyền giáo của Chúa Ba Ngôi và là cựu thành viên của Ủy ban Thần học Quốc tế, trong đó nêu rõ cách Đức Gioan Phaolô II thách thức nhưng cũng khẳng định những hiểu biết sâu sắc từ thần học duy nữ.
Bachiochi mô tả loại tham gia đầy sắc thái này vào thần học duy nữ là phù hợp với lập trường cổ điển của Giáo hội là lấy những gì tốt đẹp từ các quan điểm không phải Công Giáo.
"Đó là những gì mà những người theo Công Giáo luôn làm", bà nói. "Họ tách lúa mì ra khỏi trấu".
Bình đẳng và khác biệt
Nhưng những lời chỉ trích khác về những người theo chủ nghĩa duy nữ Công Giáo tự nhận như Bachiochi ít liên quan đến cách họ diễn giải về lịch sử mà liên quan nhiều hơn đến ứng dụng hiện tại.
McCarthy, giảng viên tại Viện nghiên cứu hôn nhân và gia đình Giáo hoàng Gioan Phaolô II ở Washington, D.C., đã lập luận rằng việc Bachiochi ủng hộ luật chống phân biệt đối xử dựa trên giới tính được xây dựng dựa trên một lý giải sai lầm về sự bình đẳng giữa nam và nữ. Ngược lại, bà cho biết, giáo lý xã hội của Giáo hội luôn nhấn mạnh đến trách nhiệm độc nhất của phụ nữ trong việc chăm sóc trẻ nhỏ, ngay cả khi giáo lý này thừa nhận phẩm giá bình đẳng của cả hai giới.
"Cuối cùng, những 'người theo chủ nghĩa duy nữ Công Giáo mới' này không muốn phân công lao động, không muốn nói rằng người mẹ nên (không chỉ chọn) ở nhà với những đứa con nhỏ của mình — và xã hội nên được tổ chức cho điều đó, chứ không phải chế độ hiện tại được thiết lập cho hai 'cha mẹ' có thể hoán đổi cho nhau", McCarthy nói với Register qua email.
Bài báo của Bachiochi trên tờ Wall Street Journal cũng bị Thomas Mirus chỉ trích, người đã viết vào ngày 25 tháng 3 tại CatholicCulture.org rằng bằng cách biến Timothy Gordon thành đối thủ của mình, bà đã định hình "cuộc tranh luận của Công Giáo về chủ nghĩa duy nữ như một cuộc xung đột giữa giáo lý của Giáo hội và những người phản động trực tuyến, trong khi bỏ qua những thách thức hợp pháp".
Mirus cho rằng một số thách thức đó đến từ những người Công Giáo trẻ phản đối chủ nghĩa duy nữ do họ đọc rộng rãi giáo lý của Giáo hội và sự vỡ mộng khi lớn lên trong "một thế giới được đánh dấu bằng những thất bại của chủ nghĩa bình đẳng phái tính".
"Khi đọc các dấu hiệu của thời đại, họ đã đi đến kết luận rằng điều mà Giáo hội cần không phải là những nỗ lực tiếp theo để pha trộn đức tin với các hệ tư tưởng thế tục, mà là sự trở lại với nguồn gốc khôn ngoan của chính mình", Mirus viết.
Một cuộc tranh luận hữu hiệu?
Xu hướng mà Mirus mô tả chắc chắn là có thật, như được chỉ ra bởi hiện tượng ngày càng gia tăng của những người có ảnh hưởng "vợ truyền thống [trad wife]". Trên thực tế, một người tham gia đồng giới tại hội nghị Notre Dame đã tình cờ nghe thấy cô ấy nói rằng cô ấy không muốn trở thành một "fangirl [nữ mộ mến] Đức Gioan Phaolô II", trong khi Favale chia sẻ rằng ngày càng phổ biến đối với sinh viên trong các nhóm xã hội Công Giáo mạnh mẽ hơn của trường khi tin rằng NFP là vô đạo đức và "sự tuân theo một chiều" là điều thư gửi tín hữu Ê-phê-sô 5 yêu cầu.
Trong khi lên án hoàn toàn cách chủ nghĩa duy nữ hiện đại làm suy yếu phẩm giá của phụ nữ, Favale cũng lưu ý đến sự trớ trêu khi phụ nữ có những cuộc thảo luận như thế này trong khuôn viên trường đại học, nơi mà họ thậm chí không được nhận vào học cách đây 50 năm (Notre Dame đã trở thành trường nam nữ học chung vào năm 1972).
Bà cho rằng "chủ nghĩa duy nữ nảy sinh vì nó phản ứng với các vấn đề xã hội thực sự" và rằng phong trào này đã giúp giải quyết "một số cách mà phụ nữ bị kìm hãm không phát triển đầy đủ như những con người". Nhưng bà cho biết, vẫn còn nhiều việc phải làm - cho dù có dưới danh nghĩa "chủ nghĩa duy nữ Công Giáo" hay không.
"Tôi thực sự thấy đây là thời điểm mà chúng ta cần sự chú ý chung đến phẩm giá của phụ nữ", Favale nói, lưu ý rằng ngay cả khái niệm về ý nghĩa của việc trở thành một người phụ nữ cũng căng thẳng hơn so với 30 năm trước. “Tôi nghĩ đó là điều mà Đức Gioan Phaolô II kêu gọi: một cách tiếp cận mới đối với phẩm giá của phụ nữ không chỉ lặp lại những sai lầm của chủ nghĩa duy nữ thế tục. Dù đó là gì, chúng ta vẫn cần nó.”
Hầu hết những người đối thoại dường như đều đồng ý, hoặc ít nhất là thừa nhận, rằng những người phụ nữ tham gia phần lớn đều cùng chung một đội. Ví dụ, Gress đã nói với Register rằng có “sự chồng chéo đáng kể” giữa công việc của cô và những ý tưởng thúc đẩy hội nghị Notre Dame.
Tuy nhiên, cũng có một sự rạn nứt. Và Favale thấy thất vọng vì nó dường như chỉ mở rộng khi “từ f” — chủ nghĩa duy nữ — được nhắc đến, như đã xảy ra trong vụ việc của The Wall Street Journal.
“Tôi hiểu sự mơ hồ về hạn từ này,” cô nói, “nhưng tôi nghĩ chúng ta nên có thể nhìn xa hơn điều đó và thấy được sự đồng thuận thực chất ở những nơi có hạn từ này. Tôi cảm thấy đó là điều không xảy ra.”
Có lẽ đó là điều cần được giải quyết trong 30 năm tiếp theo việc dấn thân với Gioan Phaolô II và lời kêu gọi của ngài về một “chủ nghĩa duy nữ mới.”
________________________________________
(*) “manosphere” chỉ các trang mạng, blog và diễn đàn trực tuyến đa dạng cổ vũ nam tính, kỳ thị phụ nữ và chống lại phong trào duy nữ.