1. Đức Giáo Hoàng Lêô XIV tiếp Đức Giám Mục Stefan Oster

Tại Rôma, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã tiếp kiến Đức Giám Mục Stefan Oster. Đức Giám Mục Oster, hiện đang ở Rôma trong chuyến hành hương giáo phận Passau, đã chia sẻ những ấn tượng của mình về cuộc gặp gỡ sau đó.

“Tôi rất vui khi được gặp Đức Giáo Hoàng Lêô.

Ngài kiên nhẫn dành thời gian nói chuyện với tôi về tình hình đầy thách thức của Giáo hội Đức nói chung, và ngài cũng muốn tìm hiểu thêm về tình hình Giáo hội ở Passau.

Tôi đã mang đến cho ngài một bức tượng Đức Mẹ Altötting rất đẹp. Ngài biết về Altötting và người tiền nhiệm của ngài, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô 16, cũng có một ngôi nhà tâm linh ở đó. Ngài đã gửi đến đoàn hành hương Passau của chúng tôi lời chào nồng nhiệt và những lời chúc tốt đẹp nhất. Đó là một cuộc trò chuyện thân tình và, đối với tôi, đầy khích lệ. Tôi rất biết ơn Đức Giáo Hoàng này, người luôn lắng nghe, đặt câu hỏi và đào sâu vào vấn đề.”

Vào ngày 4 tháng 9, Đức Giáo Hoàng Lêô đã có buổi tiếp kiến tương tự với Giám mục Georg Bätzing của Limburg, chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức.

Đức Cha Stefan Oster và Giám Mục Georg Bätzing là hai thái cực đối kháng của Công Giáo Đức. Giám Mục Georg Bätzing theo đường lối cấp tiến cực đoan thể hiện rõ nét nhất trong các yêu sách của Tiến Trình Công Nghị hay Synodaler Weg.

“Tiến Trình Công Nghị” của Đức là một quá trình tập hợp giáo dân và giám mục để thảo luận về bốn chủ đề chính: quyền lực được thực thi như thế nào trong Giáo hội; luân lý tình dục; chức tư tế; và vai trò của phụ nữ.

Quan ngại của Đức Cha Stefan Oster và những người chống đối Tiến Trình Công Nghị là tất cả các đề xuất của Hồng Y Marx, và Giám Mục Georg Bätzing như chúc lành và công nhận các kết hiệp đồng tính, phong chức linh mục cho phụ nữ, bãi bỏ luật độc thân linh mục, thay đổi giáo huấn về tính dục, giải thích lại Kinh Thánh về đồng tính luyến ái đều là những vấn đề đã được anh em Tin lành chấp nhận nhưng tỷ lệ bỏ đạo còn cao hơn.

Hơn thế nữa, các đề xuất của các Giám Mục Đức hiện nay sẽ tạo ra những kỳ vọng nào đó đối với một số thành phần giáo dân Đức. Một khi những kỳ vọng này trở thành thất vọng, mà chắc chắn sẽ là như thế, người ta sẽ chứng kiến một làn sóng lũ lượt rời bỏ Giáo Hội.

Hội đồng Giám mục Đức, gọi tắt là DBK, đã công bố số liệu thống kê năm 2024, cho biết số liệu này có thể được điều chỉnh đôi chút sau khi thu thập đầy đủ dữ liệu. Và nhận định được đưa ra năm này qua năm khác vẫn được lặp lại: Giáo Hội Công Giáo Đức tiếp tục mất tín hữu với tốc độ đáng báo động.

Con số đầu tiên đáng chú ý là số người rời bỏ Giáo hội. Theo số liệu sơ bộ từ DBK, 321.611 người đã chính thức rời bỏ Giáo hội trong năm 2024. Đúng là con số này đã giảm so với ba năm trước (359.338 người vào năm 2021, 522.821 người vào năm 2022 và 402.694 người vào năm 2023). Tuy nhiên, con số này vẫn cao hơn nhiều so với mức 300.000.


Source:Catholic World News

2. 70 Kitô hữu bị giết trong đám tang

Đức Hồng Y Fridolin Ambongo Besungu cho biết ít nhất 70 tín hữu Kitô giáo đã bị giết tại một đám tang của một thành viên trong nhà thờ của họ ở miền đông Cộng hòa Dân chủ Congo, gọi tắt là DRC.

Nhóm này đã tập trung tại làng Ntoyo vào ngày 8 tháng 9 khi phiến quân Lực lượng Dân chủ Đồng minh, còn được gọi là Nhà nước Hồi giáo Tỉnh Trung Phi, gọi tắt là ISCAP, tấn công bằng súng và dao rựa.

Theo Tổ chức tình báo SITE có trụ sở tại Hoa Kỳ, nơi theo dõi các hoạt động của phiến quân, ISCAP đã nhận trách nhiệm về vụ tấn công, cho biết họ đã giết chết gần 100 người theo Kitô giáo, Reuters đưa tin.

Vụ tấn công phản ánh tình trạng bạo lực tôn giáo ngày càng gia tăng ở miền đông Congo, nơi cộng đồng Kitô giáo ngày càng dễ bị tổn thương.

Đức Hồng Y Ambongo cho biết mặc dù DRC là quốc gia có đa số dân theo Kitô giáo, nhưng các Kitô hữu “ngày càng dễ bị đàn áp”.

“Kitô hữu thường xuyên phải đối mặt với sự đàn áp và bạo lực nghiêm trọng từ các chiến binh Hồi giáo ADF, đặc biệt là ở khu vực phía Đông. Liên minh với nhóm Nhà nước Hồi giáo, gọi tắt là IS, ADF bắt cóc, sát hại Kitô hữu và tấn công các nhà thờ, dẫn đến tình trạng khủng bố, bất ổn và di tản lan rộng,” ngài nói.

Theo Open Doors, ngoài các vụ giết người, 100 người đã bị bắt cóc và 16 ngôi nhà bị thiêu rụi. SITE cho biết 30 ngôi nhà đã bị thiêu rụi.

Đức Hồng Y, trích dẫn phát ngôn nhân quân đội, Trung úy Marc Elongo, cho biết, “Họ đến và bắt đầu giết chóc. Những người cố gắng chạy trốn đều bị bắn chết, và những người khác bị giết bằng dao rựa.”

Phiến quân ADF “đã thực hiện vụ thảm sát” vào thời điểm binh lính Congo mở cuộc hành quân trong vùng.

Các nhà chức trách nói với Reuters rằng ít nhất 18 người khác đã thiệt mạng trong một vụ tấn công nghi do ADF thực hiện ở một thị trấn khác.

ADF, được Nhà nước Hồi giáo công nhận là một chi nhánh, ban đầu là một lực lượng nổi dậy ở Uganda nhưng hiện có trụ sở tại các khu rừng của nước láng giềng DRC.

DRC được liệt kê là quốc gia số 35 trong danh sách Theo dõi Thế giới của Open Doors, trong đó nêu rằng “Các Kitô hữu phải đối mặt với những khó khăn và các cuộc tấn công bạo lực từ các chiến binh Hồi giáo, đặc biệt hoạt động ở tỉnh Bắc Kivu, phía đông đất nước”.

Nước này đã tăng sáu bậc trong danh sách trong năm qua do tình trạng bạo lực kiểu này gia tăng.


Source:Newsweek

3. Một tai nạn bi thương: Các nữ tu truyền giáo Cát Minh thương tiếc sự ra đi của Bề trên Tổng quyền và ba nữ tu tại Tanzania

Giáo hội tại Tanzania và Dòng Nữ tu Truyền giáo Cát Minh Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đang thương tiếc về sự ra đi bi thương của bốn nữ tu, bao gồm Bề trên Tổng quyền và tài xế, đã qua đời trong một vụ tai nạn giao thông vào ngày 15 tháng 9.

Vụ tai nạn xảy ra vào khoảng 11 giờ tối tại Mwanza, Tanzania, khi chiếc xe chở năm nữ tu và tài xế của họ đã đụng với một chiếc xe tải trên đường đến Sân bay Mwanza để đi Dar es Salaam.

Năm người đã thiệt mạng trong tai nạn này là Sơ Lilian Kapongo, Bề trên Tổng quyền của Dòng Nữ tu Truyền giáo Cát Minh Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, gọi tắt là MCST, Sơ Nerina, Tổng Thư ký của Dòng, Sơ Damaris Matheka, Sơ Stellamaris, và tài xế.

Một nữ tu sống sót sau vụ tai nạn nhưng bị thương nặng và hiện đang được điều trị tại Bệnh viện Bugando, Mwanza.

Các nữ tu đã có mặt tại giáo phận để dự lễ tuyên khấn trọn đời cho ba thành viên, một buổi lễ long trọng được tổ chức vào thứ Bảy 14 Tháng Chín.

Sáng Chúa Nhật, ngày 15 tháng 9, các nữ tu đã đi thăm Đức Giám Mục ở Kahama để chào tạm biệt trước khi lên đường đi Mwanza. Chính trong chặng đường cuối của hành trình từ Bukumbi–Mwanza đến phi trường, tai nạn bi thương này đã xảy ra.

Phát biểu với Đài Vatican, Đức Tổng Giám Mục Jude Thaddaeus Ruwaʼichi của Dar es Salaam đã bày tỏ nỗi đau buồn sâu sắc, gọi vụ tai nạn là “một mất mát to lớn không chỉ đối với các Nữ tu Truyền giáo Cát Minh mà còn đối với toàn thể dân Chúa tại Tanzania.”

Đức Tổng Giám Mục cho biết vụ tai nạn “đã cướp đi bốn Nữ tu lỗi lạc của Dòng Cát Minh Thánh Têrêsa quả thực là một sự việc vô cùng mất mát.”

“Tôi xin chia buồn cùng các Nữ tu Cát Minh trong thời gian tang tóc này. Nguyện xin Thiên Chúa Toàn Năng ban cho các Nữ tu yêu dấu của chúng ta được an nghỉ muôn đời”, ngài nói.

Đức Tổng Giám Mục Ruwa'ichi kêu gọi các tín hữu hiệp nhất cầu nguyện cho linh hồn những người đã khuất và cho nữ tu đang nằm bệnh viện được chữa lành.

Các Nữ tu Truyền giáo Cát Minh Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, theo Con Đường Nhỏ của Thánh Têrêsa thành Lisieux, tận tụy với công việc mục vụ, giáo dục và truyền giáo cho người nghèo và những người dễ bị tổn thương.

Sự ra đi đột ngột của các sơ được cảm nhận sâu sắc trong Hội dòng và trên khắp các giáo phận nơi các sơ đang phục vụ.

4. Bài giảng của Đức Lêô XIV trong Phụng vụ Ngày Năm Thánh xin ơn An Ủi

Trong khuôn khổ các hoạt động của Năm Thánh Hy Vọng 2025, Đức Giáo Hoàng Lêô đã chủ sự một buổi cầu nguyện vào ngày lễ Đức Mẹ Sầu Bi hôm Thứ Hai, 15 Tháng Chín, cho các tín hữu hành hương tham gia sự kiện được gọi là “Năm Thánh An Ủi”.

Đức Thánh Cha đã trao cho họ bức ảnh Agnus Dei, Chiên Thiên Chúa: “Người là Chiên Thiên Chúa, Đấng ban cho chúng ta Chúa Thánh Thần, Đấng An Ủi không bao giờ rời bỏ chúng ta.”

Buổi lễ Phụng vụ Lời Chúa, với khoảng 9,000 người hành hương, bao gồm lời chứng của hai người phụ nữ đã phải chịu đựng nỗi đau mất mát người thân vô cùng đau thương.

Một trong những người phụ nữ đã chia sẻ lời chứng của mình là Diane Foley đến từ Hoa Kỳ. Con trai bà, nhà báo James Foley, đã bị Nhà nước Hồi giáo, gọi tắt là IS chặt đầu tại Syria vào tháng 8 năm 2014.

Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ toàn văn bài giảng của Đức Thánh Cha qua phần trình bày của Kim Thúy

“Hãy an ủi, hãy an ủi dân Ta” (Is 40:1). Đây là lời kêu gọi của tiên tri Isaia, vẫn còn vang vọng cho đến ngày nay, kêu gọi chúng ta chia sẻ sự an ủi của Thiên Chúa với rất nhiều anh chị em đang trải qua những hoàn cảnh yếu đuối, buồn bã và đau khổ. Đối với những ai đang than khóc, tuyệt vọng, đau ốm và than khóc, lời loan báo mang tính tiên tri về ước muốn của Chúa là chấm dứt đau khổ và biến nó thành niềm vui vẫn vang vọng rõ ràng.

Về điều này, tôi xin một lần nữa cảm ơn hai người đã chia sẻ chứng từ của họ. Chúng ta có thể biến đổi mọi đau khổ nhờ ân sủng của Chúa Giêsu Kitô. Cảm ơn các bạn! Ngôi Lời đầy lòng thương xót này, đã nhập thể trong Chúa Kitô, chính là Người Samaria nhân hậu được nói đến trong Tin Mừng: chính Người xoa dịu vết thương của chúng ta; chính Người chăm sóc chúng ta. Trong những lúc tăm tối, ngay cả khi mọi vẻ bề ngoài đều cho thấy điều ngược lại, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi chúng ta. Đúng hơn, chính trong những khoảnh khắc này, hơn bao giờ hết, chúng ta được mời gọi đặt niềm hy vọng vào sự gần gũi của Đấng Cứu Thế, Đấng không bao giờ bỏ rơi chúng ta.

Chúng ta tìm kiếm ai đó để an ủi mình, nhưng thường không tìm thấy. Đôi khi, chúng ta thậm chí còn gặp khó khăn trong việc lắng nghe tiếng nói của những người chân thành muốn chia sẻ nỗi đau của chúng ta. Điều này vẫn thường xảy ra. Có những tình huống mà lời nói không giúp ích gì và gần như trở nên vô nghĩa. Trong những khoảnh khắc như thế, có lẽ chỉ còn lại nước mắt, nhưng đôi khi ngay cả nước mắt cũng cạn khô. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã từng gợi lại những giọt nước mắt của Maria Mađalêna, bối rối và cô đơn trước ngôi mộ trống của Chúa Giêsu. “Bà ấy chỉ đơn giản là khóc,” ngài nói. “Anh chị em thấy đấy, có những lúc trong đời chúng ta, nước mắt chính là chiếc kính giúp chúng ta nhìn thấy Chúa Giêsu. Có một khoảnh khắc trong đời, chỉ có nước mắt mới chuẩn bị cho chúng ta nhìn thấy Chúa Giêsu. Và thông điệp của người phụ nữ này là gì? ‘Tôi đã nhìn thấy Chúa.’” [1]

Anh chị em thân mến, nước mắt là ngôn ngữ diễn tả những cảm xúc sâu thẳm của một trái tim bị tổn thương. Nước mắt là tiếng kêu thầm lặng cầu xin lòng trắc ẩn và an ủi. Hơn nữa, chúng còn thanh tẩy và làm trong sạch đôi mắt, cảm xúc và suy nghĩ của chúng ta. Chúng ta không nên xấu hổ khi khóc; đó là cách thể hiện nỗi buồn và khát khao một thế giới mới. Khóc nói lên bản chất con người chúng ta, vốn yếu đuối và bị thử thách, nhưng được định sẵn để hướng đến niềm vui.

Nơi nào có đau khổ, câu hỏi không thể tránh khỏi nảy sinh: Tại sao lại có quá nhiều điều xấu xa? Nó đến từ đâu? Tại sao nó lại xảy đến với tôi? Trong cuốn Tự Thú, Thánh Augustinô viết:

“Con tìm kiếm nguồn gốc của sự dữ... Gốc rễ của nó là gì, và mầm mống của nó là gì?... Vậy thì nó đến từ đâu, khi Thiên Chúa nhân lành đã làm cho mọi sự nên tốt đẹp?... Những câu hỏi như vậy cứ quanh quẩn trong tâm hồn bất an của con... Nhưng trong trái tim con, có một chỗ đứng vững chắc và ổn định cho đức tin, trong Giáo Hội Công Giáo, nơi Chúa Kitô, Chúa và Đấng Cứu Độ của chúng ta, một đức tin mà con không muốn từ bỏ, mặc dù về nhiều mặt, đức tin này vẫn còn non nớt và do dự” (VII, 5).

Kinh Thánh dẫn dắt chúng ta trên hành trình từ nghi vấn đến đức tin. Dĩ nhiên, có những câu hỏi khiến chúng ta tự vấn, chia rẽ nội tâm và tách biệt chúng ta khỏi thực tại. Có những suy nghĩ không mang lại kết quả. Nếu chúng cô lập chúng ta và dẫn chúng ta đến tuyệt vọng, chúng cũng hạ thấp trí thông minh của chúng ta. Sẽ tốt hơn, như trong các Thánh Vịnh, nếu chúng ta biến những câu hỏi của mình thành những lời cầu xin, than thở và khẩn cầu cho công lý và hòa bình mà Chúa đã hứa ban cho chúng ta. Bằng cách này, chúng ta xây dựng một cây cầu hướng tới thiên đàng, ngay cả khi dường như không nhận được phản hồi. Trong Giáo hội, chúng ta tìm kiếm bầu trời rộng mở, đó là Chúa Giêsu, cầu nối giữa Thiên Chúa và con người. Niềm an ủi được tìm thấy khi đức tin đứng vững “vững chắc và ổn định” ở nơi mà nó từng “mơ hồ và do dự” như một con thuyền giữa bão tố.

Nơi nào có sự dữ, chúng ta phải tìm kiếm sự an ủi và ủi an có thể chiến thắng nó và không cho nó chút nào sự khoan nhượng. Trong Giáo hội, điều này có nghĩa là không bao giờ cô đơn. Việc tựa đầu vào một bờ vai an ủi, tìm thấy một người cùng khóc với bạn và tiếp thêm sức mạnh cho bạn là một liều thuốc mà chúng ta không thể thiếu, bởi vì đó là dấu chỉ của tình yêu. Nơi nào nỗi đau sâu thẳm, niềm hy vọng đến từ sự hiệp thông phải càng mạnh mẽ hơn. Và niềm hy vọng này không làm chúng ta thất vọng.

Những lời chứng chúng ta đã nghe nói về một chân lý: nỗi đau không được phép khơi dậy bạo lực, và bạo lực không bao giờ có tiếng nói cuối cùng, bởi vì nó bị chinh phục bởi một tình yêu biết tha thứ. Chúng ta có thể hy vọng đạt được sự tự do nào lớn hơn sự tự do đến từ sự tha thứ? Nhờ ân sủng, sự tha thứ có sức mạnh mở ra những trái tim, bất kể những gì họ đã trải qua. Bạo lực phải chịu đựng không thể xóa nhòa, nhưng sự tha thứ được ban cho những người xúc phạm chúng ta là một sự nếm trước Nước Thiên Chúa trên trần gian. Chính hoa trái công trình của Thiên Chúa đã chấm dứt sự dữ và thiết lập công lý. Sự cứu chuộc là lòng thương xót, và nó có thể mang lại cho chúng ta một tương lai tốt đẹp hơn, ngay cả khi chúng ta chờ đợi Chúa trở lại. Chỉ mình Ngài mới lau khô mọi giọt nước mắt và mở ra cho chúng ta cuốn sách lịch sử, cho phép chúng ta đọc những trang sách mà ngày nay chúng ta không thể hiểu được (x. Kh 5).

Còn với anh chị em, thưa anh chị em, những người đã chịu đựng bất công và bạo lực, Đức Maria lặp lại sứ điệp của ngài: “Ta là mẹ các con”. Và Chúa nói với anh chị em từ sâu thẳm trái tim mình: “Con là con trai của Ta; con là con gái của Ta”. Không ai có thể lấy đi món quà bản thân này được ban tặng cho mỗi người trong anh chị em. Giáo Hội, mà một số thành viên không may đã làm tổn thương anh chị em, hôm nay cùng anh chị em quỳ gối trước Mẹ của chúng ta. Xin cho tất cả chúng ta học hỏi từ Mẹ cách bảo vệ những người dễ bị tổn thương nhất bằng sự dịu dàng! Xin cho chúng ta học cách lắng nghe những vết thương của anh chị em và cùng nhau bước đi. Xin cho chúng ta nhận được từ Đức Mẹ Sầu Bi sức mạnh để nhận ra rằng cuộc sống không chỉ được định nghĩa bởi những điều bất hạnh mà chúng ta phải chịu đựng, mà còn bởi tình yêu của Thiên Chúa, Đấng không bao giờ bỏ rơi chúng ta và dẫn dắt toàn thể Giáo Hội.

Hơn nữa, lời của Thánh Phaolô cho thấy rằng khi chúng ta nhận được sự an ủi từ Thiên Chúa, thì chúng ta có khả năng mang lại sự an ủi cho người khác. Thánh Tông Đồ viết: “Người an ủi chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để chúng ta có thể dùng sự an ủi mà chính chúng ta đã được Thiên Chúa an ủi để an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó” (2 Cr 1:4). Thiên Chúa thấu suốt những bí mật trong lòng chúng ta; chúng ta đừng ngăn cản Người an ủi chúng ta bằng cách nghĩ rằng chúng ta chỉ có thể cậy dựa vào sức mạnh của chính mình.

Anh chị em thân mến, vào cuối buổi canh thức này, anh chị em sẽ nhận được một món quà nhỏ: Kinh Chiên Thiên Chúa. Đó là một dấu chỉ mà chúng ta có thể mang về nhà như một lời nhắc nhở về chiến thắng của thiện trên ác: mầu nhiệm Chúa Giêsu, về cái chết và sự phục sinh của Người. Người là Chiên Con ban cho chúng ta Chúa Thánh Thần, Đấng An Ủi không bao giờ rời bỏ chúng ta. Người an ủi chúng ta trong những lúc cần thiết và củng cố chúng ta bằng ân sủng của Người (x. Cv 15:31).

Những người thân yêu của chúng ta, những người đã xa cách chúng ta bởi cái chết, không hề mất đi và không tan biến vào hư không. Cuộc sống của họ thuộc về Chúa, Đấng Chăn Chiên Nhân Lành, Đấng ôm ấp và giữ chặt họ. Một ngày nào đó, Người sẽ trả họ về với chúng ta để chúng ta cùng nhau tận hưởng hạnh phúc vĩnh cửu.

Anh chị em thân mến, cũng như nỗi đau bản thân, thì nỗi đau tập thể cũng tồn tại trong thời đại của chúng ta. Toàn thể dân tộc đang bị đè bẹp bởi gánh nặng của bạo lực, đói khát và chiến tranh, và họ đang kêu cầu hòa bình. Tiếng kêu to lớn này thúc giục chúng ta cầu nguyện, hành động để chấm dứt mọi bạo lực và mang lại hòa bình cho những ai đau khổ. Trên hết, nó cầu xin Thiên Chúa, Đấng có trái tim rung động vì lòng thương xót, đem Nước Người đến. Niềm an ủi đích thực mà chúng ta phải mang đến cho những người xung quanh là cho thấy rằng hòa bình là điều có thể, và nó lớn lên trong mỗi chúng ta, nếu chúng ta không kìm hãm nó. Mong rằng các nhà lãnh đạo quốc gia đặc biệt quan tâm đến tiếng khóc của biết bao trẻ em vô tội và bảo đảm cho các em một tương lai được bảo vệ và an ủi.

Ngay cả giữa bao nhiêu sự kiêu ngạo, chúng ta tin chắc rằng Thiên Chúa sẽ khơi dậy những trái tim và đôi tay để giúp đỡ và an ủi: những người kiến tạo hòa bình có thể an ủi những ai đang đau khổ và buồn phiền. Cùng nhau, như Chúa Giêsu đã dạy, chúng ta sẽ tuyên xưng với niềm tin mạnh mẽ hơn: “Nước Cha trị đến!”