Mọi người chờ đợi Đức Giáo Hoàng Leo XIV đọc Kinh Truyền Tin vào ngày 27 tháng 7 tại Quảng trường Thánh Phêrô. (Ảnh: Gregorio Borgia/AP.)


Ngày 18 tháng 9, 2025, tạp chí Crux đăng tải phần nói về người đồng tính và phurng vụ trong cuộc phỏng vấn Đức Leo của họ:

Allen: Hai trong số những vấn đề nóng bỏng nhất được nêu ra từ Thượng Hội đồng về Tính đồng nghị, xét về những tranh luận mà chúng tạo ra, là vai trò của phụ nữ trong Giáo hội và cách tiếp cận của Giáo hội đối với cộng đồng LBGTQ+. Ngài nghĩ gì về cuộc thảo luận về hai vấn đề này, và Ngài sẽ tiếp cận chúng như thế nào trong vai trò mới của ngài với tư cách là Giáo hoàng?

Đức Giáo Hoàng Leo: Theo cách thức đồng nghị. Đối với hầu hết mọi người, chắc chắn việc hiểu rằng vai trò của phụ nữ trong Giáo hội phải tiếp tục phát triển, tôi nghĩ theo nghĩa đó đã có một phản ứng tích cực. Tôi hy vọng sẽ tiếp tục bước chân của Đức Phanxicô, bao gồm cả việc bổ nhiệm phụ nữ vào một số vai trò lãnh đạo ở các bình diện khác nhau trong đời sống Giáo hội, công nhận những ân huệ mà phụ nữ có thể đóng góp cho đời sống Giáo hội theo nhiều cách.

Chủ đề này trở thành một vấn đề nóng bỏng khi câu hỏi chuyên biệt được đặt ra về việc phong chức. Điều mà Thượng Hội đồng đã nói đến một cách chuyên biệt là việc phong chức nữ phó tế, một vấn đề đã được nghiên cứu trong nhiều năm nay. Đã có nhiều ủy ban khác nhau do các giáo hoàng khác nhau bổ nhiệm để thảo luận, chúng ta có thể làm gì về vấn đề này? Tôi nghĩ rằng đó sẽ tiếp tục là một vấn đề. Hiện tại, tôi không có ý định thay đổi giáo huấn của Giáo hội về chủ đề này. Tôi nghĩ rằng có một số câu hỏi trước đây cần được đặt ra.

Chỉ là một ví dụ nhỏ. Đầu năm nay, khi có Năm Thánh cho các Phó tế Vĩnh viễn, tất nhiên là tất cả nam giới, ngoại trừ vợ của họ, đều có mặt. Một hôm, tôi đã có buổi giáo lý với một nhóm khá đông các phó tế vĩnh viễn nói tiếng Anh. Tiếng Anh là một trong những nhóm mà họ được đại diện tốt hơn bởi vì có những nơi trên thế giới chưa bao giờ thực sự thúc đẩy chức phó tế vĩnh viễn, và bản thân điều đó đã trở thành một câu hỏi: Tại sao chúng ta lại nói về việc phong chức phó tế cho phụ nữ nếu bản thân chức phó tế vẫn chưa được hiểu đúng đắn, chưa được phát triển và thúc đẩy đúng đắn trong Giáo hội? Và lý do cho điều đó là gì? Vì vậy, mặc dù tôi nghĩ rằng đã có một nguồn cảm hứng đáng kể vào thời điểm Công đồng, khi chức phó tế vĩnh viễn được khôi phục, nhưng ở nhiều nơi trên thế giới, nó vẫn chưa trở thành những gì tôi nghĩ một số người đã nghĩ trước đó. Vì vậy, tôi nghĩ có một số câu hỏi cần được đặt ra xung quanh vấn đề đó.

Tôi cũng tự hỏi, liên quan đến một bình luận mà tôi đã đưa ra tại một trong những cuộc họp báo mà tôi đã tham dự tại Thượng hội đồng, về những gì thường được xác định là chủ nghĩa giáo sĩ trị trong các cơ cấu hiện tại của Giáo hội. Liệu chúng ta có chỉ đơn giản muốn mời gọi phụ nữ trở thành giáo sĩ trị, và điều đó thực sự đã giải quyết được điều gì? Có lẽ có rất nhiều điều cần được xem xét và phát triển vào thời điểm này trước khi chúng ta thực sự có thể đặt ra những câu hỏi khác.

Đó là những gì tôi thấy hiện nay. Tôi chắc chắn sẵn sàng tiếp tục lắng nghe mọi người. Có những nhóm nghiên cứu này; Bộ Giáo lý Đức tin, cơ quan chịu trách nhiệm về một số câu hỏi đó, vẫn tiếp tục xem xét bối cảnh thần học, lịch sử của một số câu hỏi đó, và chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu xem điều gì sẽ xảy ra.

Chỉ là một lời nhắc nhở nhanh về vấn đề LGBTQ+, nó có thể là một vấn đề mang tính ý thức hệ. Tuy nhiên, ngoài bất cứ quan điểm ý thức hệ nào, con nghĩ mọi người cảm thấy vấn đề này chỉ được nói đến theo một cách khác, với một giọng điệu khác, dưới thời Đức Phanxicô. Cách tiếp cận của riêng ngài sẽ như thế nào?

Hiện tại tôi chưa có kế hoạch nào. Tôi đã được hỏi về điều đó vài lần trong vài tháng đầu tiên này, về vấn đề LGBT. Tôi nhớ một vị Hồng Y đến từ phía đông thế giới đã nói với tôi trước khi tôi trở thành giáo hoàng, rằng "thế giới phương Tây bị ám ảnh bởi tình dục". Đối với một số người, bản sắc của một người chỉ là bản sắc tình dục, và đối với nhiều người ở các nơi khác trên thế giới, đó không phải là vấn đề chính về cách chúng ta nên đối xử với nhau. Tôi thú nhận, điều đó luôn ám ảnh tôi, bởi vì, như chúng ta đã thấy tại Thượng Hội đồng, bất cứ vấn đề nào liên quan đến LGBTQ đều gây chia rẽ sâu sắc trong Giáo hội. Hiện tại, vì những gì tôi đã cố gắng thể hiện và sống theo sự hiểu biết của mình về vai trò giáo hoàng trong giai đoạn lịch sử này, tôi đang cố gắng không tiếp tục gây chia rẽ hay thúc đẩy sự chia rẽ trong Giáo hội.

Điều tôi muốn nói là những gì Đức Phanxicô s đã nói rất rõ ràng khi ngài nói, 'todos, todos, todos'. Mọi người đều được mời vào, nhưng tôi không mời một người vào vì họ có hoặc không có bất cứ danh tính cụ thể nào. Tôi mời một người vào vì họ là con trai hoặc con gái của Chúa. Tất cả các bạn đều được chào đón, và chúng ta hãy tìm hiểu nhau và tôn trọng lẫn nhau. Vào một thời điểm nào đó, khi những câu hỏi chuyên biệt xuất hiện... Mọi người muốn giáo lý của Giáo hội thay đổi, muốn thái độ thay đổi. Tôi nghĩ chúng ta phải thay đổi thái độ trước khi nghĩ đến việc thay đổi những gì Giáo hội nói về bất cứ vấn đề nào. Tôi thấy rất khó có thể, chắc chắn là trong tương lai gần, rằng giáo lý của Giáo hội về những gì Giáo hội dạy về tình dục, những gì Giáo hội dạy về hôn nhân, [sẽ thay đổi].

Tôi đã nói về hôn nhân, giống như Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói khi ngài còn là giáo hoàng, về một gia đình là một người đàn ông và một người đàn bà trong cam kết long trọng, được ban phước trong bí tích hôn nhân. Nhưng ngay cả khi nói như vậy, tôi hiểu một số người sẽ không thích điều đó. Ở Bắc Âu, họ đã công bố các nghi thức ban phước lành cho "những người yêu thương nhau", đó là cách họ diễn đạt, điều này đi ngược lại hoàn toàn với văn kiện mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã phê chuẩn, Fiducia Supplicans, về cơ bản nói rằng, tất nhiên chúng ta có thể ban phước lành cho tất cả mọi người, nhưng không tìm cách nghi thức hóa một số loại phước lành vì đó không phải là điều Giáo hội dạy. Điều đó không có nghĩa là những người đó là người xấu, nhưng tôi nghĩ rằng, một lần nữa, điều rất quan trọng là phải hiểu cách chấp nhận những người khác biệt với chúng ta, cách chấp nhận những người đưa ra lựa chọn trong cuộc sống của họ và tôn trọng họ.

Tôi hiểu rằng đây là một chủ đề rất nhạy cảm và một số người sẽ đưa ra yêu cầu, ví dụ như "chúng tôi muốn hôn nhân đồng tính được công nhận", hoặc "chúng tôi muốn những người chuyển giới được công nhận", để nói rằng điều này được Giáo hội chính thức công nhận và chấp thuận. Các cá nhân sẽ được chấp nhận và đón nhận. Bất cứ linh mục nào đã từng giải tội sẽ nghe giải tội từ đủ loại người với đủ loại vấn đề, đủ loại trạng thái sống và lựa chọn được đưa ra. Tôi nghĩ rằng giáo huấn của Giáo hội sẽ tiếp tục như hiện tại, và đó là những gì tôi phải nói về điều đó ngay lúc này. Tôi nghĩ điều này rất quan trọng.

Các gia đình cần được hỗ trợ, cái mà họ gọi là gia đình truyền thống. Gia đình gồm cha, mẹ và con cái. Tôi nghĩ rằng vai trò của gia đình trong xã hội, vốn đôi khi đã bị ảnh hưởng trong những thập niên gần đây, một lần nữa cần được nhìn nhận và củng cố. Tôi tự hỏi liệu câu hỏi về sự phân cực và cách mọi người đối xử với nhau có phải cũng xuất phát từ những hoàn cảnh mà mọi người không lớn lên trong bối cảnh gia đình, nơi chúng ta học được - đó là nơi đầu tiên bạn học cách yêu thương nhau, cách sống với nhau, cách bao dung với nhau và cách hình thành các mối quan hệ hiệp thông. Đó là gia đình. Nếu chúng ta lấy đi nền tảng cơ bản đó, sẽ rất khó để học được điều đó theo những cách khác.

Tôi nghĩ có một số yếu tố rất quan trọng cần được xem xét. Tôi tin rằng tôi là chính mình vì tôi có một mối quan hệ tuyệt vời với cha và mẹ tôi. Các ngài đã có một cuộc sống hôn nhân rất hạnh phúc trong hơn 40 năm. Ngay cả ngày nay, mọi người vẫn bình luận về điều này, ngay cả với các anh em của tôi. Chúng tôi vẫn rất gần gũi, mặc dù mỗi người ở một phía khác nhau về mặt chính trị, chúng tôi ở những vị trí khác nhau. Theo kinh nghiệm của tôi, đó là một yếu tố cực kỳ quan trọng tạo nên con người tôi và làm thế nào tôi có thể là chính mình ngay lúc này.

Một câu hỏi nhanh khác về Thượng Hội đồng, bên cạnh các nhóm nghiên cứu đã được thành lập, ngài đã thành lập thêm hai nhóm mới: một nhóm dành cho phụng vụ, và một nhóm dành cho các hội đồng giám mục và các đại hội đồng giáo hội. Tại sao? Theo ngài, cần phải nghiên cứu những gì về những chủ đề này?

Thực ra, những nhóm này đã được Đức Phanxicô chấp thuận ngay từ cuối triều giáo hoàng của ngài. Cả hai đều xuất phát từ một số vấn đề khác đã được nghiên cứu tại Thượng Hội đồng. Các Hội đồng Giám mục, một số được thành lập đầu tiên ở Mỹ Latinh, trước Công đồng, nhưng sau đó đã phát triển hơn nhiều vào thời điểm Công đồng về vai trò của hội đồng giám mục và cách họ có thể giúp đỡ Giáo hội ở bất cứ quốc gia hoặc khu vực nào khác.

Tôi nghĩ rằng nhìn chung, vai trò của hội đồng giám mục đã được đánh giá cao. Ngày nay, chúng ta sẽ không gặp phải tình huống một giám mục bên này sông rao giảng "A" và giám mục bên kia sông lại làm điều gì đó hoàn toàn khác. Chúng ta cùng nhau họp lại và cố gắng cùng nhau xem xét các vấn đề, để đưa ra các chính sách chung hoặc áp dụng các phương pháp tiếp cận chung tùy theo khu vực, văn hóa, ngôn ngữ mà với chúng, người ta đang làm việc. Vì vậy, ở bình diện mục vụ, điều đó đã mang lại giá trị to lớn.

Câu hỏi được đặt ra, quay trở lại khá nhiều năm trước, về việc có thể trao bao nhiêu thẩm quyền thực sự cho hội đồng giám mục. Đã có rất nhiều cuộc tranh luận thần học về vấn đề này kể từ thời Công đồng Vatican II, bởi vì người kế vị các tông đồ là cá nhân Giám mục, chứ không phải Hội đồng Giám mục. Sự căng thẳng có thể nảy sinh giữa việc liệu Hội đồng Giám mục có thể đưa ra quyết định hay không và liệu các giám mục cá nhân có phải tuân theo quyết định đó hay không, đã diễn ra qua lại ở nhiều nơi và theo nhiều cách khác nhau trong những năm qua. Tại Thượng hội đồng, đã có mong muốn xem xét kỹ hơn vấn đề này và xem liệu Hội đồng Giám mục có thể đóng vai trò lớn hơn trong việc cố gắng để các giám mục cùng nhau đưa ra những quyết định có lợi cho đời sống của Giáo hội trong khu vực hoặc quốc gia của họ hay không.

Vai trò của các Sứ thần, điều này hiện cũng đang được nghiên cứu trong một nhóm riêng biệt. Sẽ hợp lý hơn nhiều nếu một Giáo hội khu vực nghiên cứu, suy gẫm và lựa chọn các chính sách hoặc phương pháp hữu ích nhất cho Giáo hội trong khu vực đó, thay vì mỗi giám mục tự mình làm việc. Vì vậy, đó là một cách hỗ trợ các giám mục trong chức vụ đó. Đó là một số điều mà chúng tôi đã xem xét ở đó.

Có một mối quan ngại được nêu ra về một cách diễn đạt trong một trong các tài liệu về vai trò của các giám mục và Hội đồng Giám mục. Câu hỏi được đặt ra là liệu các hội đồng giám mục có nên có một thẩm quyền tín lý nhất định hay không? Và điều này đã được diễn dịch theo nhiều cách khác nhau trong Thượng Hội đồng, nhưng ngay cả trong văn kiện gốc, nó cũng không được diễn dịch theo cùng một cách từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Tôi đã chỉ ra điều đó. Một số giám mục nói tiếng Anh thực sự đã rất khó chịu, nghĩ rằng các giám mục ở Bắc Âu có thể đưa ra quyết định thay đổi tín lý của Giáo hội về ly hôn và tái hôn, về các mối quan hệ đồng tính, hoặc về chế độ đa thê. Đó là một vấn đề khác mà các giám mục châu Phi đã đưa ra, quay trở lại những vấn đề không dễ dàng dung hòa trong tín lý chính thức của Giáo hội. Vì vậy, do sự khác biệt về dịch thuật, điều này đã trở thành một vấn đề thảo luận của Thượng Hội đồng. Nhưng vấn đề vẫn còn đó, khi các hội đồng giám mục phát triển, là họ có thể đóng vai trò gì.

Về nhóm nghiên cứu phụng vụ, những gì đang được nghiên cứu? Có bao nhiêu phần lý do cho việc thành lập nhóm này liên quan đến những chia rẽ xung quanh Thánh lễ Latinh Truyền thống, chẳng hạn, hay các vấn đề như nghi lễ Amazon mới?

Hiểu biết của tôi về nhóm này chủ yếu đến từ những vấn đề liên quan đến việc hội nhập văn hóa của phụng vụ. Làm thế nào để tiếp tục quá trình làm cho phụng vụ có ý nghĩa hơn trong một nền văn hóa khác, trong một nền văn hóa chuyên biệt, tại một địa điểm chuyên biệt vào bất kỳ thời điểm nào. Tôi nghĩ đó là vấn đề chính.

Còn một vấn đề khác, cũng là một vấn đề nóng hổi khác, mà tôi đã nhận được một số yêu cầu và thư [nói về]: Câu hỏi về việc mọi người luôn nói 'Thánh lễ Latinh'. Vâng, bạn có thể nói Thánh lễ bằng tiếng Latinh ngay bây giờ. Nếu đó là nghi thức Công đồng Vatican II thì không có vấn đề gì. Hiển nhiên, giữa Thánh lễ công đồng Trent và Thánh lễ công đồng Vatican II, Thánh lễ của Đức Phaolô VI, tôi không chắc điều đó sẽ đi đến đâu. Hiển nhiên là rất phức tạp.

Tôi biết rằng một phần của vấn đề đó, thật không may, đã trở thành - một lần nữa, một phần của quá trình phân cực - mọi người đã sử dụng phụng vụ như một cái cớ để thúc đẩy các chủ đề khác. Nó đã trở thành một công cụ chính trị, và điều đó rất đáng tiếc. Tôi nghĩ đôi khi, chẳng hạn như việc "lạm dụng" phụng vụ từ điều chúng ta gọi là Thánh lễ Công đồng Vatican II, không hữu ích cho những người đang tìm kiếm một trải nghiệm sâu sắc hơn về cầu nguyện, về sự tiếp xúc với mầu nhiệm đức tin mà họ dường như tìm thấy trong việc cử hành Thánh lễ công đồng Trent. Một lần nữa, chúng ta đã trở nên phân cực, đến nỗi thay vì có thể nói rằng, nếu chúng ta cử hành phụng vụ Công đồng Vatican II một cách đúng đắn, liệu bạn có thực sự thấy nhiều sự khác biệt giữa trải nghiệm này và trải nghiệm kia không?

Tôi chưa có cơ hội thực sự ngồi lại với một nhóm người đang ủng hộ nghi thức Trent. Sẽ sớm có một cơ hội, và tôi chắc chắn sẽ có những dịp cho điều đó. Nhưng đó cũng là một vấn đề mà tôi nghĩ, có lẽ với tính đồng nghị, chúng ta phải ngồi lại và thảo luận. Nó đã trở thành loại vấn đề phân cực đến mức mọi người thường không muốn lắng nghe nhau. Tôi đã nghe các giám mục nói chuyện với tôi, họ đã nói với tôi về điều đó, họ nói, 'chúng tôi đã mời họ đến đây, đến kia, vậy mà họ chẳng thèm nghe'. Họ thậm chí còn không muốn nói về điều đó. Bản thân điều đó đã là một vấn đề. Nó có nghĩa là chúng ta đang chạy theo ý thức hệ, chúng ta không còn tham gia vào trải nghiệm hiệp thông trong giáo hội nữa. Đó là một trong những vấn đề được đưa ra thảo luận.