Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ông vừa có bài viết nhan đề “Retrospect on a Pontificate”, nghĩa là “Nhìn lại một triều đại Giáo Hoàng”.

Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.

Trong thời gian chuyển tiếp giữa hai triều Giáo Hoàng vào tháng 3 năm 2013 sau khi Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô 16 thoái vị, và trong chính mật nghị, những người ủng hộ Đức Hồng Y Jorge Mario Bergoglio, Dòng Tên, làm người kế nhiệm Đức Bênêđíctô đã mô tả ngài là một nhà cải cách chính thống, cứng rắn và can đảm, người sẽ dọn sạch chuồng ngựa Augean của Vatican trong khi vẫn duy trì đường lối thần học và mục vụ đã dẫn dắt Giáo hội kể từ khi Đức Gioan Phaolô II được bầu vào năm 1978: đó là sự chính thống năng động nhằm phục vụ cho việc công bố Phúc âm được hồi sinh, trong một thế giới đang rất cần chứng tá và lòng bác ái của một Giáo hội gồm các tông đồ truyền giáo.

Đó là cách tôi đã cảm nhận về Đức Hồng Y Bergoglio khi chúng tôi gặp nhau hơn một giờ ở Buenos Aires 10 tháng trước đó. Trong cuộc trò chuyện lần ấy, Đức Hồng Y đã bày tỏ lòng biết ơn đối với những gì tôi đã làm để giải thích về Đức Gioan Phaolô II cho thế giới trong cuốn “Chứng Nhân Hy Vọng”. Đổi lại, tôi đã nói với ngài rằng tôi đã bị cuốn hút như thế nào với “Văn kiện Aparecida” năm 2007, trong đó các giám mục của Mỹ Châu Latinh cam kết với một tương lai truyền giáo mạnh mẽ hơn. Tôi đã nói rằng đó là lời giải thích gây ấn tượng nhất về Tân Phúc âm hóa mà tôi từng đọc, và tôi cảm ơn ngài vì vai trò lãnh đạo mà ngài đã đóng trong việc soạn thảo văn kiện này.

Vì vậy, khi Đức Hồng Y Bergoglio được bầu làm Giáo Hoàng vào ngày 13 tháng 3 năm 2013, tôi đã dự đoán một triều đại Giáo Hoàng có sự tiếp nối rộng rãi với hai vị tiền nhiệm, mặc dù có những nét cá nhân đặc biệt. Tôi dám nói rằng, hầu hết các Hồng Y đã bỏ phiếu để bầu Đức Tổng Giám Mục Buenos Aires làm giám mục thứ 266 của Rôma cũng nghĩ như vậy. Người ta nghĩ rằng Đức Phanxicô sẽ là một Đức Giáo Hoàng cải cách, người sẽ tiếp thêm năng lượng cho Giáo hội để truyền giáo và truyền bá phúc âm bằng cách sắp xếp lại mớ hỗn độn của Vatican đã làm mất ổn định triều đại Giáo Hoàng của Bênêđíctô XVI.

Nhưng đó không hẳn là những gì đã xảy ra trong 12 năm tiếp theo.

Lòng trắc ẩn rõ ràng của Đức Giáo Hoàng Phanxicô đối với những người bị tước đoạt và người nghèo chắc chắn đã giúp thế giới hiểu rõ hơn rằng Giáo Hội Công Giáo noi gương Chúa của mình trong việc dang rộng bàn tay chữa lành cho những người bị thiệt thòi ở vùng ngoại vi của xã hội. Tông huấn khai mạc của ngài, Evangelii Gaudium hay Niềm vui Phúc âm, là lời khẳng định vang dội về ý định truyền giáo của Công đồng Vatican II, tiếp nối thông điệp vĩ đại Redemptoris Missio, hay Sứ mệnh của Đấng cứu thế, của Đức Gioan Phaolô II và Văn kiện Aparecida. Cũng giống như lời thách thức của Đức Giáo Hoàng đối với những người trẻ tuổi tại Ngày Giới trẻ Thế giới đầu tiên của ngài ở Brazil: Đừng sợ thử những cách mới để đưa người khác đến với Chúa Kitô, ngay cả khi một số cách đó không hiệu quả.

Tuy nhiên, trong vòng một năm sau khi đắc cử, Đức Thánh Cha Phanxicô đã mở lại vấn đề được cho là đã được giải quyết về việc liệu những người Công Giáo trong các cuộc hôn nhân bất thường theo giáo luật - những người vẫn là thành viên của Giáo hội - có thể được Rước lễ hợp pháp hay không. Khi làm như vậy, ngài đã khởi động các động lực sẽ trở thành trở ngại cho việc tái truyền giáo của thế giới phương Tây đang thế tục hóa và gieo rắc sự hỗn loạn ở những nơi mà Tân Phúc âm hóa đã đạt được thành công lớn, đặc biệt là ở Phi Châu cận Sahara. Mô hình làm xáo trộn những gì được cho là đã được giải quyết này tiếp tục trong suốt triều đại Giáo Hoàng của ngài và liên quan đến các vấn đề về đời sống luân lý (bao gồm cả phản ứng của Giáo hội đối với những tuyên bố ngày càng kỳ lạ liên quan đến cuộc cách mạng tình dục), các vấn đề về phẩm trật Giáo hội (bao gồm cả việc Giáo hội được phép truyền chức cho ai) và các vấn đề về mối quan hệ của Công Giáo đối với các cường quốc thế giới mong muốn khuất phục Giáo hội (như ở Trung Quốc).

Vào cuối năm 2016, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã mời tôi đến buổi tiếp kiến riêng thứ ba và cũng là cuối cùng của tôi với ngài. Đó là một cuộc trò chuyện thân thiện, thẳng thắn, giống như những cuộc trò chuyện trước đó. Nhưng khi tôi gợi ý rằng những tranh cãi về việc Rước lễ cho những người trong cuộc hôn nhân bất thường, vốn đã trở nên gay gắt hơn sau tông huấn Amoris Laetitia, hay Niềm vui yêu thương, của ngài, là một trở ngại cho công cuộc truyền giáo đầy nhiệt huyết mà ngài đã đề xuất trong Evangelii Gaudium, Đức Giáo Hoàng đã bác bỏ mối quan tâm của tôi bằng cách nói rằng, “Ồ, tranh cãi thì ổn thôi mà.” Tất nhiên, tôi nghĩ, trong nhiều trường hợp khác thì ổn. Nhưng phải chăng bản chất của sứ vụ Giáo Hoàng là làm xáo trộn những gì đã được xác lập?

Vẫn còn một công trình cải cách lớn cần thực hiện ở Rôma: về mặt tài chính, thần học và các mặt khác. Tuy nhiên, về cơ bản hơn, triều đại Giáo Hoàng tiếp theo phải hiểu được điều mà triều đại Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô dường như không nắm bắt được: đó là các cộng đồng Kitô giáo nào duy trì được sự hiểu biết rõ ràng về bản sắc và ranh giới giáo lý và đạo đức của họ thì không chỉ có thể sống sót sau những axit của thời hậu hiện đại; mà họ còn có cơ hội cải đạo thế giới hậu hiện đại. Ngược lại, các cộng đồng Kitô giáo nào có bản sắc riêng trở nên không mạch lạc, có ranh giới trở nên xốp và phản ánh nền văn hóa thay vì cố gắng cải đạo nó sẽ héo mòn và chết.

Vì như thường lệ, câu hỏi cốt lõi cho tương lai của Công Giáo là: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Luca 18:8) — “đức tin đã được truyền lại cho dân thánh chỉ một lần là đủ” (Thư Giuđa 1:3), và không còn gì khác nữa.


Source:First Things