1. Quân Nga phá hủy một thánh đường Công Giáo nghi lễ Đông phương ở Ukraine

Thứ Tư, ngày 28 tháng Năm vừa qua, tại thành phố Myrnohrad, thuộc miền Donetsk đông Ukraine, nhà thờ thánh Phêrô và Phaolô tông đồ của Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương, đã bị quân Nga pháo kích làm hư hại nặng nề.

Cha sở Ivan Vasylenko của giáo xứ đã thuật lại tin này trên trang Facebook cùng với hình ảnh thánh đường bị phá hủy. Cha cũng cho biết thành phố Myrnohrad hằng ngày bị tấn công bằng những máy bay điều khiển từ xa. Bom rơi vào sân thánh đường gây thiệt hại trầm trọng cho nhà thờ, tất cả các cửa sổ đều bị phá hủy, mái nhà thờ cũng vậy, và các mảnh vỡ tung tóe quanh đó. “Đây thực là một thứ Sáu Tuần Thánh đối với chúng tôi”.

Bộ Ngoại giao Ukraine một lần nữa lên án cuộc đàn áp tôn giáo do Nga thực hiện tại các vùng lãnh thổ bị tạm chiếm của Ukraine, cáo buộc Mạc Tư Khoa giết hại hàng chục giáo sĩ và làm hư hại hoặc phá hủy hàng trăm nhà thờ.

Bộ Ngoại Giao Ukraine cho biết Nga đã có hành động đàn áp có hệ thống các Giáo Hội Ukraine và các tín ngưỡng khác tại các vùng lãnh thổ bị tạm chiếm trong khi thúc đẩy Giáo hội Chính thống giáo Nga do Điện Cẩm Linh kiểm soát.

Bộ Ngoại giao cho biết, trích dẫn Liên minh Tự do Tôn giáo và Tín ngưỡng Quốc tế, sáu mươi bảy giáo sĩ thuộc nhiều tín ngưỡng khác nhau đã bị giết hại trong khoảng thời gian từ khi Nga bắt đầu cuộc chiến toàn diện vào năm 2022 đến tháng 2 năm 2025.

Chính quyền xâm lược của Nga cũng giam giữ bất hợp pháp hơn 30 nhân vật tôn giáo. Theo tuyên bố, hơn 640 địa điểm thờ phượng, bao gồm 596 nhà thờ Kitô Giáo, đã bị hư hại hoặc phá hủy.

Bộ Ngoại Giao cho biết: “Nhà nước Nga, cùng với Giáo hội Chính thống giáo Nga, gọi tắt là ROC, đã thực hiện một hệ thống đàn áp đối với các cộng đồng tôn giáo trên các vùng đất bị tạm chiếm của Ukraine, nhằm mục đích phá hủy sự đa dạng tôn giáo và bản sắc tinh thần của Ukraine”.

Theo báo cáo, ROC đã cưỡng chế sáp nhập tám giáo phận của Giáo hội Chính thống giáo Ukraine thuộc Tòa Thượng phụ Mạc Tư Khoa, bao gồm hơn 1.600 giáo xứ và 23 tu viện.

Năm ngoái, Ukraine đã thông qua một đạo luật có khả năng cấm nhà thờ Ukraine có liên hệ với Mạc Tư Khoa do có quan hệ với ROC và các hoạt động thân Nga của giáo sĩ trong bối cảnh cuộc chiến toàn diện.

ROC được coi là có mối quan hệ chặt chẽ với nhà nước Nga, với nhà lãnh đạo là Thượng phụ Mạc Tư Khoa Kirill, là đồng minh thân cận của Putin và là người công khai ủng hộ cuộc xâm lược Ukraine của Nga.

Kyiv cho biết Mạc Tư Khoa cũng đang đàn áp các nhà thờ độc lập của Ukraine và các tôn giáo khác, bao gồm Giáo hội Chính thống giáo tự trị Ukraine, Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương, Giáo Hội Công Giáo Rôma, các nhóm Tin lành và Hồi giáo, và Nhân chứng Giê-hô-va.

Bộ này cho biết trong một tuyên bố: “Họ đang bị dựng lên các vụ án hình sự, tiến hành khám xét, đe dọa và gây áp lực về thể chất”.

Các cộng đồng của Giáo hội Chính thống giáo Ukraine được cho là đã không còn tồn tại ở Crimea bị tạm chiếm và nhà thờ cuối cùng của họ trên bán đảo này đã bị phá hủy vào tháng 6 năm 2024.

Bộ Ngoại giao đã kêu gọi “tất cả các nhà thờ, tổ chức tôn giáo và tín hữu trên toàn thế giới” “chú ý đến cuộc đàn áp dã man của Nga đối với những người dân thường không gây ra mối đe dọa nào cho bất kỳ ai và chỉ muốn tin vào Chúa và cầu nguyện”.

“Chúng tôi yêu cầu mọi người trên thế giới coi trọng các quyền cơ bản của con người đừng im lặng chứng kiến những tội ác chống lại đức tin và tín hữu, vì sự im lặng chỉ làm gia tăng tội ác và mang lại cho nó cảm giác vô tội.”

Nhiều trường hợp đã chỉ ra rằng sự đàn áp tôn giáo ở các vùng lãnh thổ bị tạm chiếm của Ukraine bắt nguồn từ năm 2014, khi Nga xâm lược Crimea và một số vùng của Donetsk và Luhansk một cách bất hợp pháp. Chính quyền xâm lược của Nga đã nhắm vào các cộng đồng Hồi giáo Tatar ở Crimea cũng như nhiều giáo phái Kitô giáo khác nhau ở vùng Donbas.

2. Ngoại trưởng Nga cam kết rằng Giáo hội Chính thống giáo Nga sẽ giành lại 'vị trí trung tâm' trong đời sống Ukraine

Trong một cuộc họp gần đây với nhà lãnh đạo Giáo hội Chính thống giáo Nga, Ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov cho biết rằng “Nga sẽ không bỏ rơi người dân Chính thống giáo Ukraine trong hoàn cảnh khó khăn của họ và sẽ bảo đảm rằng các quyền hợp pháp của họ được tôn trọng và Chính thống giáo chính thống sẽ giành lại vị trí trung tâm trong đời sống tinh thần của người dân trên đất Ukraine.”

Theo quan điểm của Tòa Thượng phụ Mạc Tư Khoa, Ukraine là “lãnh thổ Chính thống giáo theo giáo luật” của Tòa Thượng Phụ Mạc Tư Khoa. Quan điểm này duy trì tính hợp pháp của Giáo hội Chính thống giáo Ukraine trực thuộc vào Tòa Thượng phụ Mạc Tư Khoa, gọi tắt là UOC, và coi Giáo hội Chính thống giáo Ukraine độc lập, gọi tắt là OCU, là bất hợp pháp. Trong khi dó, Tòa Thượng phụ Đại kết Constantinople, nắm giữ vị trí tối cao trong danh dự giữa các giáo hội Chính thống giáo, chỉ công nhận Giáo hội Chính thống giáo Ukraine độc lập, OCU.

Đức Thượng phụ Kirill của Mạc Tư Khoa, nhà lãnh đạo Giáo hội Chính thống giáo Nga, cho biết rằng “các chương trình đàn áp chống lại Giáo hội của chúng tôi, do các thế lực chống Nga ở các nước phương Tây khởi xướng, hiện đang được thực hiện không chỉ ở Ukraine mà còn ở Moldova và các quốc gia vùng Baltic, đặc biệt là Estonia... Những biểu hiện phân biệt đối xử trắng trợn này mà các tín hữu của chúng tôi phải đối mặt đòi hỏi một phản ứng thỏa đáng và đánh giá công bằng từ cộng đồng quốc tế.”


Source:Russian Orthodox

3. Bài Giảng Của Đức Thánh Cha Lêô XIV Trong Thánh Lễ Năm Thánh Gia Đình, Con Cái, Ông Bà Và Người Cao Niên

Lúc 10 giờ 30 sáng Chúa nhật, ngày 01 tháng Sáu năm 2025, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã chủ sự thánh lễ trọng thể, tại Quảng trường Thánh Phêrô, bế mạc Những ngày Năm Thánh dành cho các gia đình, người cao tuổi, con cái và các ông bà nội ngoại, tiến hành từ thứ Sáu, ngày 30 tháng Năm vừa qua, với sự tham dự của các tín hữu đến từ 131 quốc gia trên thế giới.

Đồng tế với Đức Thánh Cha, có bốn Hồng Y, hơn hai mươi lăm giám mục và gần hai trăm linh mục, trước sự hiện diện của hơn bảy mươi ngàn tín hữu. Nhiều người đã đến Quảng trường từ ba giờ trước đó để chờ đợi.

Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói:

Tin Mừng chúng ta vừa nghe cho chúng ta thấy Chúa Giêsu, trong Bữa Tiệc Ly, cầu nguyện cho chúng ta (x. Ga 17:20). Ngôi Lời Thiên Chúa, đã làm người, khi Người gần kết thúc cuộc sống trần thế của Người, Người nghĩ đến chúng ta, những anh chị em của Người, và trở thành một lời chúc phúc, một lời cầu nguyện khẩn cầu và ngợi khen Chúa Cha, trong quyền năng của Chúa Thánh Thần. Khi chính chúng ta, tràn đầy sự ngạc nhiên và tin tưởng, bước vào lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, chúng ta trở thành, nhờ tình yêu của Người, một phần của một kế hoạch vĩ đại liên quan đến toàn thể nhân loại.

Chúa Kitô cầu nguyện để chúng ta có thể “tất cả nên một” (câu 21). Đây là điều tốt đẹp nhất mà chúng ta có thể mong ước, vì sự hiệp nhất phổ quát này mang đến giữa các tạo vật của Người sự hiệp thông vĩnh cửu của tình yêu chính là Thiên Chúa: Chúa Cha ban sự sống, Chúa Con tiếp nhận sự sống và Chúa Thánh Thần chia sẻ sự sống.

Chúa không muốn chúng ta, trong sự hiệp nhất này, trở thành một đám đông vô danh và vô diện. Người muốn chúng ta nên một: “Như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, xin cho họ cũng ở trong Chúng Ta” (câu 21). Sự hiệp nhất mà Chúa Giêsu cầu nguyện như vậy là sự hiệp thông dựa trên cùng một tình yêu mà Thiên Chúa yêu thương, tình yêu mang lại sự sống và ơn cứu độ cho thế gian. Như vậy, trước hết, đó là một món quà mà Chúa Giêsu đến để mang đến. Từ trái tim nhân loại của Người, Con Thiên Chúa cầu nguyện với Chúa Cha bằng những lời này: “Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ được hoàn toàn nên một, để thế gian biết rằng Cha đã sai Con và đã yêu thương họ như Cha đã yêu thương Con” (câu 23).

Chúng ta hãy lắng nghe những lời này với sự kinh ngạc. Chúa Giêsu đang nói với chúng ta rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta như Người yêu thương chính Người. Chúa Cha không yêu chúng ta ít hơn Người yêu Con Một của Người. Nói cách khác, bằng một tình yêu vô hạn. Thiên Chúa không yêu ít hơn, vì Người yêu trước, ngay từ lúc khởi đầu! Chính Chúa Kitô đã làm chứng cho điều này khi Người nói với Chúa Cha: “Cha đã yêu Con trước khi tạo thành thế gian” (câu 24). Và cũng vậy: trong lòng thương xót của Người, Thiên Chúa luôn mong muốn thu hút mọi người đến với Người. Chính sự sống của Người, được ban cho chúng ta trong Chúa Kitô, làm cho chúng ta nên một, kết hợp chúng ta với nhau.

Việc lắng nghe Tin Mừng này hôm nay, trong Năm Thánh của Gia đình, Trẻ em, Ông bà và Người cao tuổi, làm chúng ta tràn ngập niềm vui.

Anh chị em thân mến, chúng ta đã nhận được sự sống trước khi chúng ta mong muốn. Như Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói: “tất cả chúng ta đều là con trai và con gái, nhưng không ai trong chúng ta chọn được sinh ra” (Kinh Truyền tin, ngày 1 Tháng Giêng năm 2025). Không chỉ vậy. Ngay khi chúng ta được sinh ra, chúng ta cần những người khác để sống; nếu để tự mình, chúng ta sẽ không thể sống sót. Một người khác đã cứu chúng ta bằng cách chăm sóc chúng ta về thể xác và tinh thần. Tất cả chúng ta đều còn sống ngày hôm nay nhờ vào một mối quan hệ, một mối quan hệ tự do và giải thoát của lòng tốt của con người và sự quan tâm lẫn nhau.

Lòng tốt của con người đôi khi bị phản bội. Ví dụ, bất cứ khi nào sự tự do được kêu gọi không phải để ban tặng sự sống, mà là để tước đoạt nó, không phải để giúp đỡ, mà là để làm tổn thương. Tuy nhiên, ngay cả khi đối diện với cái ác chống đối và tước đoạt sự sống, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục cầu nguyện với Chúa Cha cho chúng ta. Lời cầu nguyện của Người hoạt động như một loại thuốc xoa dịu vết thương của chúng ta; nó nói với chúng ta về sự tha thứ và hòa giải. Lời cầu nguyện đó làm cho trải nghiệm của chúng ta về tình yêu dành cho nhau như cha mẹ, ông bà, con trai và con gái trở nên hoàn toàn có ý nghĩa. Đó là điều chúng ta muốn tuyên bố với thế giới: chúng ta ở đây để trở thành “một” như Chúa muốn chúng ta trở thành “một”, trong gia đình và ở những nơi chúng ta sống, làm việc và học tập. Khác biệt, nhưng là một; nhiều, nhưng là một; luôn luôn, trong mọi hoàn cảnh và ở mọi giai đoạn của cuộc sống.

Anh chị em thân mến, nếu chúng ta yêu thương nhau theo cách này, dựa trên Chúa Kitô, là “Alpha và Omega”, “khởi đầu và kết thúc” (x. Kh 22:13), chúng ta sẽ là dấu chỉ hòa bình cho mọi người, trong xã hội và thế giới. Chúng ta đừng quên: gia đình là cái nôi của tương lai nhân loại.

Trong những thập niên gần đây, chúng ta đã nhận được một dấu chỉ khiến chúng ta tràn ngập niềm vui nhưng cũng khiến chúng ta phải suy nghĩ. Đó là sự kiện một số cặp vợ chồng đã được phong chân phước và phong thánh, không phải riêng lẻ, mà là với tư cách là những cặp vợ chồng. Tôi nghĩ đến Louis và Zélie Martin, cha mẹ của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu; và đến Chân phước Luigi và Maria Beltrame Quattrocchi, những người đã nuôi dạy một gia đình ở Rôma vào thế kỷ trước. Và chúng ta đừng quên gia đình Ulma đến từ Ba Lan: cha mẹ và con cái, hiệp nhất trong tình yêu và sự tử đạo. Tôi đã nói rằng đây là một dấu chỉ khiến chúng ta phải suy nghĩ. Bằng cách chỉ ra họ là những chứng nhân mẫu mực của đời sống hôn nhân, Giáo hội cho chúng ta biết rằng thế giới ngày nay cần giao ước hôn nhân để biết và chấp nhận tình yêu của Thiên Chúa và để đánh bại, nhờ sức mạnh thống nhất và hòa giải của nó, những thế lực phá vỡ các mối quan hệ và xã hội.

Vì lý do này, với trái tim tràn đầy lòng biết ơn và hy vọng, tôi muốn nhắc nhở tất cả các cặp vợ chồng rằng hôn nhân không phải là lý tưởng mà là thước đo tình yêu đích thực giữa một người nam và một người nữ: một tình yêu trọn vẹn, chung thủy và đơm hoa kết trái (x. THÁNH PHAOLÔ VI, Humanae Vitae, 9). Tình yêu này làm cho anh chị em nên một xương một thịt và cho phép anh chị em, theo hình ảnh của Thiên Chúa, ban tặng món quà sự sống.

Vậy thì tôi khuyến khích anh chị em, để làm gương về sự chính trực cho con cái của anh chị em, hành động như anh chị em muốn chúng hành động, giáo dục chúng về sự tự do thông qua sự vâng lời, luôn nhìn thấy điều tốt ở chúng và tìm cách nuôi dưỡng điều đó. Và các con, những đứa con thân yêu, hãy thể hiện lòng biết ơn đối với cha mẹ của các con. Nói “cảm ơn” mỗi ngày vì món quà sự sống và tất cả những gì đi kèm với nó là cách đầu tiên để tôn vinh cha mẹ của các con (x. Xh 20:12). Cuối cùng, ông bà và những người cao tuổi thân mến, tôi khuyên quý vị hãy chăm sóc những người thân yêu của quý vị bằng sự khôn ngoan và lòng trắc ẩn, và với sự khiêm nhường và kiên nhẫn đi kèm với tuổi tác.

Trong gia đình, đức tin được truyền lại cùng với cuộc sống, thế hệ này qua thế hệ khác. Nó được chia sẻ như thức ăn trên bàn ăn gia đình và như tình yêu trong trái tim chúng ta. Theo cách này, gia đình trở thành nơi đặc quyền để gặp gỡ Chúa Giêsu, Đấng luôn yêu thương chúng ta và mong muốn điều tốt đẹp cho chúng ta.

Tôi xin nói thêm một điều cuối cùng. Lời cầu nguyện của Con Thiên Chúa, mang lại cho chúng ta hy vọng trên hành trình của mình, cũng nhắc nhở chúng ta rằng một ngày nào đó tất cả chúng ta sẽ là uno unum (x. Thánh Augustinô, Sermo super Ps. 127): một trong một Đấng Cứu Độ, được ôm ấp bởi tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa. Không chỉ chúng ta, mà cả cha mẹ, bà, ông, anh, chị và con cái của chúng ta, những người đã đi trước chúng ta vào ánh sáng của Lễ Vượt Qua vĩnh cửu của Người, và chúng ta cảm thấy sự hiện diện của họ ở đây, cùng với chúng ta, trong khoảnh khắc cử hành này.

4. Hán hóa không phải là hội nhập văn hóa

Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ông vừa có bài viết nhan đề “‘Sinicization’ Is Not Inculturation”, nghĩa là “‘Hán hóa’ không phải là hội nhập văn hóa”. Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.

“Hội nhập văn hóa” đã là một thuật ngữ thông dụng của Công Giáo trong hơn nửa thế kỷ. Đây không phải là từ nhằm xuyên tạc ý nghĩa, lộng giả thành chân, như trong trường hợp nhiều thuật ngữ xã hội học khác. Trái lại, nó thể hiện một chân lý trong hoạt động truyền giáo của Công Giáo đã có từ hai thiên niên kỷ trước: Giáo hội sử dụng bất kỳ yếu tố thích hợp nào có sẵn trong một nền văn hóa nhất định để làm cho đề xuất Phúc Âm trở nên sống động trong môi trường đó. Các dụ ngôn do chính Chúa Giêsu đưa ra trong cuộc đời rao giảng của Ngài là sự bảo đảm trong Kinh thánh cho phương pháp truyền giáo này. Chúa đã sử dụng các yếu tố văn hóa quen thuộc có sẵn để truyền tải những chân lý quan trọng về Vương quốc của Chúa đang đi vào lịch sử—người buôn bán tìm thấy viên ngọc trai vô giá, người gieo hạt kiên nhẫn chờ đợi mùa gặt, hạt cải trở thành một cây lớn, v.v.

Thánh Phaolô là một “người hội nhập văn hóa” đầu tiên trong Công vụ Tông đồ 17, khi ngài cố gắng thuyết phục những người dân thành Athen hoài nghi rằng “vị thần vô danh” mà họ dùng để bảo vệ các luận lý tôn giáo của mình đã tự tỏ mình ra với dân Israel và trong Chúa Giêsu, bị đóng đinh và sống lại. Điều đó không hiệu quả như Phaolô hy vọng, nhưng chiến lược này là đúng đắn. Và vài thế kỷ sau, nó đã được Giáo hội triển khai để biến lời tuyên bố nguyên thủy của Kitô giáo—”Chúa Giêsu là Chúa”—thành tín điều và giáo điều, thông qua sự trung gian của các phạm trù rút ra từ triết học cổ điển tại các công đồng chung như Nicê I và Chalcedon.

Hội nhập văn hóa cũng có thêm một yếu tố quan trọng nữa. Khi Giáo hội tiếp nhận các yếu tố văn hóa từ một môi trường nhất định để làm cho thông điệp Phúc Âm trở nên “có thể nghe được”, thì một sự hội nhập văn hóa thành công sau đó sẽ dẫn đến việc Phúc Âm định hình lại môi trường đó để nó thể hiện sự hiểu biết theo Kinh thánh về phẩm giá và tình đoàn kết của con người. Như tôi đã giải thích trong Thư gởi người Công Giáo trẻ, sự hội nhập văn hóa của Phúc Âm ở Mễ Tây Cơ thông qua biểu tượng Đức Mẹ Guadalupe là một ví dụ điển hình về các yếu tố văn hóa bản địa đưa mọi người đến với đức tin, làm sâu sắc thêm đức tin đó và định hình lại một nền văn hóa.

Hội nhập văn hóa không phải là những gì đang diễn ra ở Trung Quốc ngày nay.

Dưới sự cai trị sắt đá của nhà độc tài Tập Cận Bình, chính sách tôn giáo của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là “Hán hóa”. Những người cả tin hoặc gian dối coi đây chỉ là một hình thức hội nhập văn hóa khác. “Hán hóa” không phải như vậy: Đó là sự đảo ngược lệch lạc của hội nhập văn hóa, nếu được hiểu đúng.

Đức tin Công Giáo ở Trung Quốc phải tuân theo “Tư tưởng Tập Cận Bình”; nó không được làm dịu đi, càng không được sửa đổi, ý thức hệ chính thức của nhà nước. Thực hành Công Giáo ở Trung Quốc phải thúc đẩy các mục tiêu bá quyền của chế độ cộng sản Trung Quốc; nếu chứng tá Công Giáo thách thức các mục tiêu đó, hoặc cách thức các mục tiêu đó được thúc đẩy thông qua các vi phạm nhân quyền nghiêm trọng trong nước và xâm lược quốc tế, thì kết quả là sự đàn áp, thường là thông qua hệ thống pháp luật tham nhũng mà người bạn Jimmy Lai của tôi là một nạn nhân nổi bật.

Một sự hội nhập văn hóa thực sự của Phúc Âm tại Trung Quốc sẽ kêu gọi Trung Quốc và chế độ chuyên chế hiện đang kiểm soát nó hoán cải. Ngược lại, “Hán hóa” là lời kêu gọi Giáo Hội Công Giáo quỳ lạy, và phục tùng một cách ngoan ngoãn chương trình kiểm soát xã hội của chế độ, về cơ bản là sự tinh chỉnh những gì George Orwell mô tả trong tiểu thuyết phản địa đàng 1984—mặc dù phản địa đàng hiện được quảng bá như một xã hội lý tưởng của sự sung túc, kết hợp với việc khôi phục danh dự và phẩm giá quốc gia thông qua sự thống trị thế giới.

Sự kiên trì ngoan cố của Vatican trong thỏa thuận thảm họa về mặt truyền giáo, sai lầm về mặt chiến lược và đáng ngờ về mặt giáo luật mà họ đã thực hiện với chế độ Tập Cận Bình vào năm 2018 – trong thỏa thuận trao cho Đảng Cộng sản Trung Quốc quyền đề cử giám mục, vi phạm giáo huấn của Công đồng Vatican II và lệnh cấm được nêu trong Điều 377 triệt 5 - là một dấu chỉ phản chứng chống lại tầm quan trọng của sự hội nhập văn hóa đích thực đối với Công cuộc Truyền giáo Mới. Thỏa thuận đó không thúc đẩy sứ mệnh công bố Phúc Âm của Giáo hội tại Trung Quốc. Thỏa thuận đó không đặt Giáo hội vào vị thế phục vụ xã hội Trung Quốc. Thay vào đó, thỏa thuận đó biến những người trong giáo hội thành những phát ngôn nhân trên thực tế cho một chế độ đang đàn áp người Hồi giáo và người Duy Ngô Nhĩ cũng như những người theo đạo Tin lành và Công Giáo thầm lặng. Vì vậy, Hồng Y Stêphanô Châu Thủ Nhân (Stephen Chow, 周星馳) của Dòng Tên mới được tấn phong gần đây thậm chí không thể dám nhắc đến những từ “Thiên An Môn” và “thảm sát” vào đúng ngày kỷ niệm 35 năm vụ thảm sát đó (hoàn toàn trái ngược với lời chứng dũng cảm của người tiền nhiệm của ngài là giám mục Hương Cảng, Đức Hồng Y Giuse Trần Nhật Quân, dòng Salêsiêng).

Sự đảo ngược của quá trình hội nhập văn hóa này cũng đang làm tổn hại đến danh tiếng của Công Giáo trên trường quốc tế. Nhà sử học vĩ đại người Anh Sir Michael Howard đã từng nói với tôi rằng sự chuyển đổi của Giáo Hội Công Giáo thành tổ chức bảo vệ quyền con người cơ bản nổi bật nhất thế giới là một trong hai cuộc cách mạng lớn của thế kỷ XX, cuộc cách mạng còn lại là cuộc tiếp quản của những người Bolshevik của Lênin ở Nga vào năm 1917. Cuộc cách mạng của Lenin vẫn tiếp diễn ở Trung Quốc. Trong khi đó, cuộc cách mạng nhân quyền của Công Giáo đã bị đình trệ ở Rôma trong thập niên qua, gây bất lợi cho cả Giáo hội và thế giới.


Source:First Things