Theo Lehman Strauss, để hiểu được học lý bất tử của Kitô Giáo, người ta phải có một quan niệm đúng đắn về bản chất tam nhất (tripartite nature) của con người mà ông gọi là một tam vị (trinity). Nhiều người cho rằng con người chỉ là một hữu thể vật lý. Lối suy nghĩ này thật nguy hại. Chỉ lo thỏa mãn các nhu cầu thân xác, con người có khuynh hướng quên mất sự kiện họ là hữu thể bất tử. Có những người sống suốt đời mà không biết hay nhất định không tin rằng họ có một cuộc sống sau khi chết. Nhưng trên giường hấp hối, họ mới chợt nhận ra mình không phải chỉ là một hữu thể vật lý.

Lại có nhiều người thời nay nghĩ rằng con người chỉ gồm có hai phần là xác và tinh thần (body and spirit). Thực ra, con người gồm tới ba thành phần: xác, linh hồn và tinh thần. Họ được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh của Người. Mà Người là Tam Vị Nhất Thể, nên con người cũng là một tam vị.

Rất khó phân biệt giữa linh hồn (soul) và tinh thần. Nhưng Thánh Kinh phân biệt rất rõ ba thành phần thân xác, linh hồn và tinh thần này. Thư thứ nhất gửi tín hữu Texalônica viết: “Tôi cầu cùng Thiên Chúa cho tinh thần, linh hồn và thân xác anh em được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách trong ngày Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm” (1 Tx 5:23). Còn thư gửi tín hữu Do Thái thì cho rằng: “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách linh hồn và tinh thần, xương cốt và tủy sống (thân xác), và phân biệt được tư tưởng và tâm tư của lòng người” (4:12).

Khía cạnh tam vị kia nói lên sự kiện con người là hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thân xác mà thôi, hay một mình linh hồn, một mình tinh thần không làm nên toàn bộ con người. Họ là cả ba : “thân xác, linh hồn và tinh thần”. Phải nắm vững điều này ta mới chính xác hiểu được chủ đề sự sống sau khi chết.

Tinh thần

Có tác giả như Clarence Larkin (Rightly Dividing the Word, tr.86) sử dụng 3 vòng tròn đồng tâm để mô tả bản chất tam vị của con người: vòng ngoài cùng chỉ thân xác, vòng giữa chỉ linh hồn và vòng trong cùng chỉ tinh thần. Theo Larkin, ở vòng ngoài cùng, thân xác tiếp xúc với thế giới vật chất nhờ 5 giác quan. Ở vòng giữa, cửa dẫn vào linh hồn là trí tưởng tượng, ý thức, ký ức, lý lẽ và cảm xúc. Ở vòng trong cùng, tinh thần tiếp nhận các ấn tượng của thế giới vật chất bên ngoài qua linh hồn. Các khả năng tâm linh của tinh thần là tin, cậy, tôn kính, cầu nguyện và thờ lạy.

Theo Larkin, ở trạng thái chưa bị sa ngã, tinh thần con người được Trời soi sáng, nhưng khi con người sa ngã, tội lỗi đã đóng cửa sổ tinh thần lại, kéo màn che và phòng tinh thần trở thành phòng sự chết và nó vẫn như thế trong trái tim những ai chưa được tái sinh, cho tới khi Sự Sống và Ánh Sáng ban sức mạnh của Thần Khí Thiên Chúa tràn ngập phòng ấy bằng Sự Sống và Ánh Sáng ban sức mạnh sự sống mới của Chúa Giêsu Kitô.

Từ đó, tinh thần con người, vì là lãnh vực nhận thức Thiên Chúa, trở thành thư phòng nội thẳm và tư riêng của con người nơi công trình tái sinh diễn ra. Có thể nói: hiện trường chính để Thần Khí Thiên Chúa hành động nơi con người, và phần trong bản chất con người tương đồng với Thần Khí ấy một cách đặc biệt hơn cả chính là tinh thần con người. Thánh Phaolô có đoạn viết rất hay về điều này. Dựa vào chương 64 Sách Isaia, ngài viết: “Nhưng, như đã chép: Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người. Còn chúng ta, chúng ta đã được Thiên Chúa mặc khải cho, nhờ Thần Khí. Thật vậy, Thần Khí thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa. Vậy ai trong loài người biết được những gì nơi con người, nếu không phải là tinh thần của con người trong con người? Cũng thế, không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không phải là Thần Khí của Thiên Chúa” (1 Cr 2:9-11).

Trong trạng thái chưa tái sinh, con người biết được những việc của con người nhờ tinh thần của họ ở trong họ: nếu muốn biết một số sự kiện khoa học, tôi dùng tinh thần nhân bản của tôi để điều tra, suy nghĩ và cân nhắc chứng cớ… Nhưng tinh thần nhân bản của tôi chỉ quanh quẩn bên “những gì nơi con người”. Nếu tôi muốn biết những gì thuộc về Thiên Chúa, tinh thần hữu hạn, mê ngủ của tôi thiếu khả năng. Thánh Phaolô dạy rằng “Con người sống theo tính tự nhiên thì không đón nhận những gì của Thần Khí Thiên Chúa, vì cho đó là sự điên rồ; họ không thể biết được, bởi vì phải nhờ Thần Khí mới có thể xét đoán” (1Cr 2: 14).

Tinh thần con người cần “tia sáng tái sinh” mới có thể hiểu những điều của Thiên Chúa. Bản chất thiêng liêng (tinh thần) của con người cần được canh tân mới thực sự có được ý niệm nào đó về những điều của Thiên Chúa. Điều duy nhất đứng án ngữ cửa ra vào của tinh thần con người chính là ý chí của họ. Khi họ từ bỏ ý riêng ấy đi, Thần Khí Thiên Chúa bèn tới ngự trong tinh thần của con người. Khi việc ấy diễn ra, ta sẽ biết vì Thánh Phaolô từng viết: “Chính Thần Khí (Chúa Thánh Thần) chứng thực cho tinh thần chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa” (Rm 8:16).

Nhiều người thú thực rằng họ không nhận được điều gì từ Thánh Kinh dù họ đi nhà thờ thường xuyên và năng đọc Sách Thánh. Có lẽ những người này không biết rằng họ chưa được tái sinh và chưa trao phó ý chí họ cho Thần Khí Thiên Chúa để Người canh tân tinh thần nhân bản của họ. Những việc sâu thẳm về Thiên Chúa sẽ không bao giờ được hiểu bởi thế giới bên ngoài Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu từng dạy rằng: “Của thánh đừng quăng cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo” (Mt 7:6).

Tinh thần của người chưa tái sinh cũng không có khả năng để đánh giá những việc của Chúa y như con chó không có khả năng đánh giá “của thánh” hay con heo không có khả năng đánh giá ngọc trai. Bởi thế, thư thứ hai của Thánh Phêrô trích dẫn: “chó mửa ra chó liền ăn lại; heo tắm xong, heo nhẩy vào bùn” (2:22). Nguyên tuyền chỉ vì chó bao giờ cũng là chó, và heo bao giờ cũng là heo. Không một lượng tôn giáo hay một hoạt động giáo hội nào có thể thay đổi được một con người chưa tái sinh. Nhiều người cho rằng nguyên nhân suy thoái của thế giới Kitô Giáo là vì ta đã liệng ngọc trai cho heo, trao của thánh cho chó. Không được trao thừa tác vụ của Giáo Hội vào tay những con người chưa thực sự tái sinh, vì “cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí” (Ga 3:6).

Sách Thánh bảo: “Nhưng thực ra thần khí trong con người, tức hơi thở của Đấng Toàn Năng, mới làm cho hiểu biết” (Gióp 32:6). Nghĩa là hiểu biết chỉ được ban cho tinh thần con người. Người duy vật bảo rằng tinh thần con người chỉ là không khí anh ta thở và chỉ thân xác mới làm nên nhân cách anh ta. Đối với chúng ta, điều ấy sai, tinh thần con người mới làm nên nhân cách của họ, chính tinh thần ấy mới làm anh ta khác với thú vật. Nếu tinh thần chỉ là hơi thở, chắc chắn Thiên Chúa đã không cư xử với nó như một nhân cách. Người được gọi là “Thiên Chúa ban thần khí cho mọi xác phàm” (Ds 16:22) và là “Cha các tinh thần (Hr 12:9) (bản Các Giờ Kinh Phụng Vụ: Cha trên trời; bản Phổ Thông: Patri spirituum). Kitô hữu phụng sự và thờ phượng Thiên Chúa bằng chính tinh thần mình. Thánh Phaolô viết: “vì có Chúa làm chứng cho tôi, Đấng tôi phụng sự bằng tinh thần tôi khi rao giảng Tin Mừng” (Rm 1:9) (Bản Các Giờ Kinh Phụng Vụ: Thiên Chúa là Đấng tôi hết lòng thờ phượng khi loan báo Tin Mừng về Con của Người, chính Người làm chứng cho tôi là tôi hằng nhắc nhớ tới anh em). Còn Chúa Giêsu thì dạy: “Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong tinh thần và sự thật” (Ga 4:24).

Linh hồn

Con người không những có một linh hồn sống động mà họ còn là một linh hồn sống động nữa. Thánh Kinh dạy: “Thiên Chúa lấy bụi đất nặn ra con người, và thổi sinh khí vào lỗ mũi họ, họ bèn trở nên một linh hồn sống động (Bản Phổ Thông: factus est homo in animam viventem; Bản CGKPV: một sinh vật). Ta cần phân biệt điều thực sự có tính thiêng liêng (spiritual) với điều thường được gọi là sinh khí hay sinh hồn (soulish hay psychical). Chính vì vậy ở đây, nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ đã dịch là sinh vật. Thánh Phaolô cũng dùng hạn từ này (soulish hay psychical) trong 1Cr 2:14 mà phần đông các dịch giả dịch là “tính tự nhiên” (CGKPV: con người sống theo tính tự nhiên; nhưng trong chú thích lại ghi là con người thuộc sinh khí). Bản Phổ Thông dịch là “animalis homo”. Theo Larkin, tinh thần là lãnh vực hoạt động để Chúa Thánh Thần thực hiện việc tái sinh. Còn linh hồn, theo nghĩa vừa kể, là địa bàn của đam mê, của cảm nhận và của thèm muốn, nên nó là nơi Xa Tan hoạt động để rù quyến con người. Kha-mo nói với con cháu Giacóp rằng: “hồn con trai Si-khem tôi thèm khát con gái các ông” (St 34:8) (bản Phổ Thông: Sychem filii mei adhesit anima filliae vestrae). Thánh Kinh viết về Đavít và Gionathan: “hồn Gionathan gắn bó với hồn Đavít, và Gionathan yêu Đavít như chính mình” (1Sm 18:1). Các câu này cho thấy hồn là địa bàn của xúc cảm. Nhưng nếu nó biết yêu, thì nó cũng biết ghét. Ta thấy 2Samuen 5:8 viết “những kẻ mà hồn Đavít ghét”. Còn sách Isaia thì viết: “Như người đói mơ thấy mình đang ăn, khi tỉnh dậy, thấy hồn (CGKPV: dạ dày) mình trống rỗng; hay như một người khát nằm mơ thấy mình đang uống; khi tỉnh dậy, thấy mình mệt lử, hồn (CGKPV: họng) mình khát khô” (29:8).

Hồn con người không bao giờ qui hướng về Thiên Chúa cho tới khi tinh thần họ được tái sinh. Con người không bao giờ yêu mến Thiên Chúa cũng như những điều thuộc về Người cho tới khi họ được sinh ra từ trên cao. Các thèm khát và quyến luyến của họ chỉ qui hướng về Thiên Chúa khi họ nhận ra trạng huống tội lỗi của mình và ơn thánh cứu độ của Thiên Chúa. Khi Thần Khí Thiên Chúa soi sáng tinh thần con người bằng ánh sáng và sự sống thần linh, họ mới chịu qui phục mọi quyến luyến và cơ năng của mình cho Thiên Chúa.

Đức Mẹ từng hát: “Hồn tôi ca ngợi Thiên Chúa, và tinh thần tôi vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi” (Lc 1:46, 47). Ngài không thể ca ngợi Thiên Chúa trong hồn mình nếu ngài không nhìn nhận Thiên Chúa trong tinh thần mình như là Đấng Cứu Độ của mình. Chiến thắng nguyên khởi xuất hiện trong tinh thần khi Chúa Giêsu Kitô được nhìn nhận là Cứu Chúa của bản thân mình.

Trong Thánh Vịnh có tính cổ điển bất diệt, tức Thánh Vinh Chúa là Mục Tử tôi, Đavít hát rằng: “animam meam refecit” (Chúa phục hoạt hồn tôi. CGKPV: [Chúa] bổ sức cho tôi).Trong tiếng Hípri, động từ này nghĩa đen là quay về, trở lại. Đavít không bao giờ mất ơn cứu độ, nhưng có lúc các quyến luyến và thèm khát làm ông xa lánh Chúa, như khi ông phạm tội cùng Bátseva. Khi đã nên một với đoàn chiên của Mục Tử Thần Linh, ông mới có thể hát: “Chúa làm hồn tôi trở lại”. Người Kitô hữu đang vui hưởng sự hiệp thông bất tận với Chúa, có thể cất tiếng ca: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi hãy chúc tụng Thánh Danh” (Tv 103:1).

Nhận định

Những phân tích trên đây, đối với người Công Giáo, nghe ra xa lạ, và chắc chắn không chính thống. Kể ra đây chỉ để “mui vui”, tản mạn. Đối với chúng ta, con người chỉ có hai yếu tố là linh hồn và thân xác. Theo Từ Điển Bách Khoa Công Giáo, trong trường hợp con người, hạn từ tinh thần chỉ thực tại sống động, có trí hiểu và không có thân xác như linh hồn. Thành thử, nơi con người, linh hồn và tinh thần là một. Tuy nhiên, Từ Điển này cho rằng trong tâm lý học, “tinh thần” (spirit) chỉ tất cả những gì thuộc sinh hoạt lý trí, nghệ thuật, luân lý và tôn giáo ngược với sinh hoạt chỉ có tính tri giác và đam mê. Sinh hoạt sau tùy thuộc vật chất và bị luật vật chất chi phối; sinh hoạt trước có đặc điểm tự do, tự quyết định. Như thế, dường như có sự phân biệt giữa linh hồn và tinh thần, nhưng sự phân biệt này chỉ là phân biệt về mức độ, cùng lắm là bình diện.

Trong lãnh vực thần học, Từ Điển cho hay: hạn từ “tinh thần”, ngoài nghĩa Chúa Thánh Thần ra, đôi khi được dùng chỉ linh hồn, và đôi khi cũng dùng để chỉ hành động siêu nhiên của Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã dùng theo nghĩa sau khi ngài nói tới con người thiêng liêng và con người xác thịt và đã kể ra ba yếu tố: tinh thần, linh hồn, và thân xác làm nhiều người lầm tưởng cho rằng có ba yếu tố nơi con người (xem 1Tx 5:23 và Dt 4:12). Những người ấy theo chủ thuyết ba yếu tố (trichotomist), thường thuộc Giáo Hội Pentecostal, ngược với các giáo hội Kitô Giáo khác chỉ chủ trương hai yếu tố là linh hồn/tinh thần và thân xác.