Có Vui mừng và Hy vọng quá chăng?
Linh mục Anthony Kelly, Dòng Chúa Cứu Thế, tiến sĩ thần học, từng học tại Rôma, Toronto và Paris, nguyên chủ tịch Hội Thần học Công giáo Úc, hiện là trưởng ngành triết và thần học và giáo sư thần học tại Viện Ðại Học Công giáo Úc, được đức Gioan Phalô II cử làm thành viên Ủy ban Thần học Quốc tế của Tòa thánh. Tháng 8 năm 2003, trên tạp chí Australian Ejournal of Theology, cha viết một bài kỷ niệm Công đồng Vatican II tròn 40 tuổi.
Gaudium et Spes dĩ nhiên có nghĩa là vui mừng và hy vọng. Khi nhìn lại 40 năm qua, ta thấy niềm vui quả có thực tế hơn, và niềm hy vọng thì càng lớn hơn nhiều. Biến cố Vatican II vẫn còn đang diễn tiến, dù rất có thể nó không tưởng tượng được thế giới sẽ biến đổi ra sao.
Ðối với những con người thuộc thế hệ tôi, Vatican II vẫn còn rất rõ trong trí nhớ riêng của họ.Trong thời gian Công đồng, Rôma là nơi người ta cần phải hiện diện. Tôi có dịp tình cờ được làm phó tế cho một thánh lễ khai diễn một phiên họp trong ngày. Quả là giây phút ngây ngất được đọc Phúc âm cho các Nghị phụ nhóm họp. Nhưng đừng vội phổng mũi. Vai trò của tôi cũng bao hàm việc phải đội mũ tế (mitre) lên đầu một vị giám mục thừa sai người Canada nói tiếng Pháp, chắc chắn đây là dịp long trọng đối với ngài. Chẳng may, chiếc mũ như có lò so bật khỏi đầu ngài như chiếc hỏa tiễn. Chắc ngài nguyền rủa anh chàng phó tế người miền đối cực này lắm lắm. Dù sao, tôi cũng được xua qua một bên và từ đấy chẳng dám hó hé chi. Phải mình đã vui mừng và hy vọng quá chăng?
Hiến chế Mục vụ, Giáo hội Trong Thế giới Ngày nay, được hoàn thành vào cuối Công đồng, đã đưa Dân Chúa vào một cuộc đối thoại đầy tự tin và rộng mở với thế giới đương đại. Những chữ đầu hết của nó là “Vui mừng và Hy vọng”, Gaudium et Spes; những chữ sau này trở thành tiêu đề cho Hiến chế. Bốn mươi năm đã trôi qua kể từ ngày Công đồng khai mạc. Vậy mà ngày nay ta lại phải giáp mặt với một câu hỏi lạ: Có vui mừng quá và có hy vọng quá chăng?- vì cung cách thay đổi của thế giới, và cũng vì vậy mà ta thay đổi theo: tempora mutatur, et nos mutamur in illis như câu ngạn ngữ thường nói.
Từ ngày khai mạc Vatican II, một thế hệ rưỡi (một kiểu nói lạ lùng!) đã sinh ra. Cái thế hệ rưỡi ấy không biết đến Giáo hội ở bất cứ thời nào khác. Những người trẻ tuổi này thường bỡ ngỡ trước những hoài niệm lâu đời và những lòng trung thành kỳ dị của các lớp đàn anh. Họ không thể tưởng tượng nổi làm thế nào một công đồng lại có thể là một cú sốc cho được, làm thế nào mà người ta lại có thể cuống cả lên, làm thế nào nó lại có thể trở thành một thách đố, một nguy cơ hoặc ngay cả một thất bại nữa…
Một thế hệ cũng đã ra đi. Họ là những người khôn ngoan khi công đồng bắt đầu – đó chính là các nhà lãnh đạo có ảnh hưởng của Giáo hội, những thần học gia tài ba, các thành viên các hội dòng lớn, và một cộng đoàn rộng lớn gồm những người đàn ông và đàn bà từng hiến cả đời mình dưỡng dục con cái trong đức tin Công giáo.
Bây giờ tất cả những người ấy đã đi khỏi; được gom ra khỏi trần thế này nơi đầy những tra vấn, tìm tòi và chứng cớ nửa vời để bước vào huyền nhiệm sau hết. Nhiều người ra đi trong hy vọng, một hy vọng lớn hơn bao giờ hết. Nhưng tất cả đã ra đi khi chưa thấy giấc mơ lớn nào trở thành sự thực… Một số ra đi vỡ mộng và cay đắng vì số lượng, vận tốc và chiều sâu trong các thay đổi mong chờ.
Còn đối với chúng ta, những người sống hơn một thế hệ, có lẽ sự thật chính yếu của Công đồng nằm sâu trong chương 7 của tài liệu nói về Giáo hội: “Giáo hội lữ hành, trong các bí tích và định chế của mình, là những cái vốn thuộc thời đại này, mang theo mình dấu ấn trần gian, một dấu ấn sẽ qua đi, và chính Giáo hội cũng đứng vào hàng các tạo vật đang rên rỉ và đau đớn trong khi chờ đợi mạc khải của con cái Thiên Chúa”.
Chúng ta tiếp tục không được thừa hưởng chi ngoài Thiên Chúa, không được thừa hưởng chi ngoài ân sủng của Chúa Kitô, không được thừa hưởng chi ngoài những việc lạ lùng Chúa Thánh Thần có thể làm. Không Công đồng nào nói về Thiên Chúa, về mầu nhiệm Chúa Kitô và về đặc sủng Chúa Thánh Thần bằng Công đồng này. Con đường lữ hành của ta gặp rất nhiều khúc rẽ lạ trước khi giáp mặt với mầu nhiệm trung tâm của đức tin. Các hy vọng của ta không nằm ở điều gì khác; không nằm trong việc tìm lại được thuở vàng son ngày cũ mà cũng không nằm trong việc dựng nên một hình ảnh tươi tốt hơn cho hiện tại cũng như một Giáo hội được hoạch định hoàn chỉnh cho tương lai.
Ta tưởng ta có thể du hành miễn phí vào tương lai bằng cách bắt kịp với “Thế giới Hiện đại”: aggiornamento là đủ rồi! Nhưng trong bốn mươi năm qua, cái thế giới hiện đại ấy đã trở thành “thế giới hậu hiện đại” mất rồi, một thế giới hậu hiện đại trong đó chính trị tan vỡ, kinh tế sụp đổ, môi sinh co giật. Người ta đang mơ một trật tự thế giới mới. Nhưng nếu không có một lịch sử lớn hơn hay một truyền thống ân phúc của tình người, những giấc mơ ấy mặc tình cho sức mạnh của luật lệ hay vũ lực khuynh đảo.
Tôi tin chắc rằng cùng với việc mở màn cho một thiên niên kỷ mới, các tài liệu của Vatican II sẽ được các thế hệ sắp sinh ra đọc lại một cách hân hoan. Lần này họ đọc với một đức tin nghịch thường nhẹ hơn đi một chút, với nhiều chấp nhận hơn con đường khiêm hạ lữ hành, và dáo dác hơn trong việc tìm gặp Ðấng Khách Lạ đang đứng chờ ta ở mọi khúc rẽ.
Bạn có thể đặt một câu hỏi trong đầu để thảo luận, tỷ như: trong 40 năm qua thế giới đã thay đổi ra sao đến độ chính Công đồng cũng có thể đã không dự đoán được? Hệ thống thông tin hoàn cầu (WWW), thống nhất Châu Âu ngày một mạnh, cộng sản Sô-viết sụp đổ, phong trào nữ quyền xuất hiện, ý thức mới về môi sinh, man vàn cuộc chiến tranh, phong trào khủng bố mọc lên, chủ nghĩa tư bản toàn thắng, nước Mỹ bá quyền không còn ai thách thức, văn hóa tiêu thụ thống trị, dân số nhanh chóng già đi, kỹ thuật sinh học xuất hiện, thảm họa AIDS, chấm dứt phân biệt chủng tộc (Apartheid), triều đại Gioan Phaolô II, diệt chủng tại Campuchia và Rwanda, phanh phui không ngừng các gương xấu của giáo sĩ… đấy mới chỉ là một số, bạn có thể điền cho đủ theo cách riêng của mình! Giáo hội quả thấy mình trong một thế giới thường được mệnh danh là ‘hậu hiện đại’.
Câu hỏi trên đây của chúng ta đáng được thảo luận. Vì dù sao, vui mừng và hy vọng cần thấm nhiễm ý thức Kitô hữu, nếu ta muốn tin vào chứng tá Thánh Kinh và sứ điệp Công đồng. Bạn có thể lựa một vài thánh vịnh và nhận ra một kinh nghiệm cổ điển về lòng hy vọng từng nâng đỡ biết bao thế hệ tín hữu trong suốt 2,700 năm qua, lời cầu nguyện mà Chúa Giêsu thuộc lòng, mà Ðức Maria từng đọc, lời cầu tán tụng và than vãn vốn là nòng cốt các Giờ Kinh Phụng Vụ của Giáo hội:
“Sự cứu độ của người công chính đến từ Chúa;
Ngài ở đấy chở che trong buổi nghặt nghèo;
Chúa phù trợ và Người giải thoát;
Giải thoát họ khỏi ác nhân và thương cứu họ
Bởi họ ẩn náu nơi Người” (Tv 37: 39-40)
Hồn tôi hỡi, cớ sao phiền muộn? Sót sa phận mình?
Hãy cậy trông Thiên Chúa; vì tôi sẽ tán tụng Người,
Ðấng Cứu độ và Thiên Chúa của tôi.” (Tv 42: 6-7)
Ngoài ra, ta còn ca khúc diệu kỳ tán tụng lòng hy vọng trong thư Rôma đoạn 8, trong đó thánh Phalô miêu tả toàn bộ tạo vật đang rên xiết trong hành vi lâm bồn vĩ đại, chúng ta cũng cùng rên xiết và cả Chúa Thánh Thần nữa cũng cùng rên xiết với ta. Ngài viết: ‘trong hy vọng, chúng ta được cứu vớt’ (Rm 8:24). Và ngài tự hỏi: ‘Ai có thể phân cách chúng ta ra khỏi tình yêu Chúa Kitô? Phải chăng gian truân, khốn khó, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?’ (RM 8: 35). Tại sao ta không thêm ‘hay gương mù, khủng hỏang trung thành và lãnh đạo, hay bất cứ xụp đổ định chế hoặc bất cứ điều gì có thể đem xấu hổ, bối rối và tuyệt vọng đến cho ta’? Dù sao, Thánh Phaolô cũng rõ rệt ở chỗ này:
‘Nhưng không, trong mọi thử thách ấy, chúng ta là những kẻ chiến thắng nhờ Ðấng đã yêu thương chúng ta. Ðúng vậy, tôi tin chắc rằng cho dù là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương [=hiện trạng quỉ quái của bất cứ nền văn hóa đương đại nào], hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì có thể phân cách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta’ (Rm 8: 37-39).
Có lẽ ta nghĩ mọi chuyện sẽ dễ dàng hoặc những lời mở đầu trong tài liệu vĩ đại kia của Công đồng chỉ là một lý tưởng lãng mạn không hơn không kém:
“Vui mừng và hy vọng, sầu buồn và lắng lo của con người thời nay, nhất là của những ai túng nghèo và khốn khó cách này cách khác, đều là vui mừng và hy vọng, sầu buồn và lắng lo của môn đệ Chúa Kitô” (GS #1).
Không hề có cách gì êm đẹp để ta cảm nghiệm sầu buồn, lắng lo, túng nghèo và khốn khó; cũng chẳng có cách gì dễ dàng để ta bước vào vui mừng và hy vọng như đã hứa. Tuy nhiên niềm hy vọng thì thật rộng lớn và tóm thu: “Khi ta gieo vãi khắp mặt địa cầu các hoa trái của thiên nhiên và lao công ta – nhân phẩm, hiệp thông huynh đệ, và tự do – theo mệnh lệnh của Chúa và trong Thần Khí của Người, ta sẽ thấy chúng một lần nữa, được tẩy sạch mọi bợn nhơ tội lỗi, được rọi sáng và biến hình, lúc Chúa Kitô trình lên Chúa Cha vương quốc đời đời và phổ quát, vuơng quốc ‘của chân lý và công chính, vương quốc của thánh thiện và ân sủng, vương quốc của công bình, yêu thương và bình an’. Trên địa cầu này, vương quốc ấy hiện diện một cách huyền nhiệm; khi Chúa đến, vương quốc ấy bước vào hoàn hảo” (GS #39).
Ðiều ấy mời ta phải đọc kinh Lạy Cha một cách mới hẳn: ”Nguyện danh Cha cả sáng; nước Cha trị đến” – không phải danh khác, càng không phải danh ta; không phải nước khác, càng không phải nước ta!
Thật dễ hiểu khi nhiều người trong ta có khuynh hướng cho rằng nếu ta thương thế gian, ắt hẳn thế gian sẽ thương ta, và nhìn nhận Giáo hội ngay tức khắc như là tác nhân tạo nên một nhân loại tuyệt vời.
Về vấn đề này, ta từng được khuyến cáo rất rõ. Các cộng đoàn bé nhỏ bị vây khốn cách nay 1900 năm vẫn hằng nhắc nhớ nhau lời Chúa nói trước khi Người chịu đóng đinh rằng: “nếu thế gian ghét các con, các con hãy biết rằng nó ghét ta trước khi ghét các con. Nếu các con thuộc thế gian, thế gian sẽ yêu thương các con như những gì thuộc về nó. Nhưng vì các con không thuộc thế gian, mà chính ta chọn các con từ thế gian này, cho nên thế gian ghét các con” (Ga 15:18-19). Ðiều này không bào chữa cho bệnh hoang tưởng (paranoia); nhưng nó đáng được ghi nhớ, vì văn hóa nhân bản vốn có yếu tố sâu xa muốn tìm chiên thế tội ngay trong nó: bất cứ ai hay bất cứ điều gì dám thách thức những chân lý tự phục vụ nó hiển nhiên phải bị thanh trừng; muốn sống yên, thì đừng thách thức.
Hẳn bạn còn nhớ những câu nói của Friedrich Nietzsche, một triết gia vốn đưa ra một nhận định gây hiệu quả mạnh mẽ trên nền văn hóa hiện đại, nhất là trong nền văn hóa chữ nghĩa của nước Úc. Trong tác phẩm cuối cùng trước khi bị bệnh tâm thần, nhà triết học hàm hồ mà cuồng nhiệt nhất trong số các triết gia này viết như sau: “Quan niệm Kitô giáo về Thiên Chúa – Thiên chúa như vị thần của người bệnh, Thiên chúa như con nhện, Thiên chúa như thần thiêng – là một trong những quan niệm hủ hóa nhất về thần linh chưa bao giờ có trên mặt địa cầu. Nó đại diện cho mức thấp nhất trong khai triển đi xuống về thần linh. Thiên chúa suy thoái xuống thành mâu thuẫn với sự sống, thay vì phải biến hình nó và là khẳng định đời đời của nó! Thiên chúa như tuyên chiến chống lại sự sống, chống lại thiên nhiên, chống lại ý chí muốn sống! Thiên chúa – công thức cho mọi vu khống chống ‘trần gian này’, cho mọi láo khoét về ‘cõi bên kia’! Thiên chúa thần thiêng hóa hư vô, ý chí hư vô được công bố là thánh thiện” (1).
Có lẽ bạn sẽ cho rằng Công đồng, và tất cả những công bố chính tiếp theo Công đồng, là để trả lời cho cuộc tấn công của Nietzsche. Trong việc tái xác định nền nhân bản Kitô giáo lần này, không cụm từ nào được trích dẫn bằng những lời sau đây của thánh Irenaeus: “vinh quang Thiên chúa là chính con người khi sống trọn vẹn” – dù những lời kế tiếp của vị giám mục tử đạo thế kỷ thứ ba này ít khi được trích thêm, “… và sự sống con người là được thấy Thiên chúa”. Con người nhân bản ‘sống trọn vẹn’ hay ‘chủ nghĩa nhân bản siêu việt và toàn diện’ mà các đức giáo hoàng thường nhắc đến luôn, là để chống lại bất cứ cách hiểu nào về con người trong tương phản với phẩm giá nhân vị hay đi ngược lại tính toàn bộ các giá trị từng đưa ra để phục vụ phúc lợi nhân bản. Như linh cảm trước cơn khủng hoảng sắp tới, thần học đã đi vào con đường giải phóng trong cố gắng đem lại cho con người, bất kể cảm nghiệm áp bức của họ ra sao, một thúc đẩy để hy vọng thực tiễn, dù niềm vui còn phải hoãn lại.
Sự thực ta từng vật lộn với khá nhiều nghĩa về thế gian trong Tân Ước. Một đàng, “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi…” (Ga 3:16), và Chúa Kitô là ánh sáng và đấng cứu độ thế gian, tự hiến mình chuộc tội cho toàn thể thế gian, để biến đổi vũ trụ. Quả thật nhiều yêu thương ở đấy. Nhưng mặt khác, thế gian, dưới quyền lực sự ác, quả là kẻ thù tận mạng, một vương quốc mà không một môn đệ nào của Chúa Kitô có thể thuộc về, một kẻ thù mà Chúa Kitô đã toàn thắng. Như thế trong nó là cả một thảm kịch ánh sáng và bóng tối. Tân Ước không hề bận tâm đưa ra những phân biệt mà sau này người ta phải đưa ra: sự khác biệt giữa sáng tạo tốt đẹp của Chúa và những yếu tố trong văn hóa con người muốn loại bỏ Thiên Chúa và làm xấu diện mạo nhân bản, một lãnh vực tự phóng chiếu ngẫu thần và tự chiếm hữu ma quái dẫn đến tự hủy. Bất kể hy vọng có nghĩa như thế nào, bất kể vui mừng có nghĩa như thế nào, quả không khôn ngoan khi cho rằng cái vương quốc khác đang hiện hữu trong trái tim ta và trong lịch sử trong đó Giáo hội đang sống là một không gian của ngây thơ trong trắng và thiện tâm thiện chí. Ta không dám lý tưởng hóa hoàn cảnh dù vẫn tin vào tình yêu không điều kiện của Thiên Chúa đối với mọi tạo vật, và hân hoan vì sự kiện chiến thắng lớn đã đạt được mà không bị phản hồi trong việc phục sinh của đấng chịu đóng đinh: “can đảm lên; ta đã thắng thế gian!” (Ga 16:33).
Ðường ta đi còn dài. Thực vậy, niềm hứng khởi gan dạ ‘rất can đảm’ (như Ngài Humphrey thường nói), rất hy vọng, rất hân hoan của Công đồng đến lúc này xem ra đã nhường bước cho một cái gì thận trọng hơn nhiều. Một phần, và có lẽ là phần lớn nhất của vấn đề, là ta đã không hiểu cái ‘thế giới hậu hiện đại’ đang thay đổi nhanh chóng kia sẽ ra như thế nào, nhất là khi các biên giới giữa Giáo hội và thế gian xem ra có rất nhiều lỗ thủng (porous). Theo một nghĩa nào đó, Giáo hội không là gì khác hơn cái thành phần thế gian sống cho mầu nhiệm ân sủng phổ quát hiện đang tác động giữa lòng lịch sử con người, khi cái thành phần ấy làm việc và cầu nguyện cho nước Cha trị đến. Theo một cách nhìn khác, Giáo hội, trong tư cách thành phần thế gian, phải giáp mặt với thứ ‘hắc tử’ văn hóa đang hoành hành, tương tự như số tử vong khủng khiếp của trận dịch Hắc Tử (Black Death) tại Âu Châu thế kỷ 14 giết hại đến 40% dân số lúc đó. Ðiều đang xẩy ra khiến tất cả chúng ta cảm thấy bất hạnh dù nhìn vào mình theo bình diện định chế (hôn nhân, gia đình, luật pháp, chính trị, trật tự thế giới, giáo dục, kinh tế) hay theo bình diện bản thân: làm thế nào chịu được bấy nhiêu vấn đề? Ta như cảm thấy nhu cầu phải bắt đầu lại từ đầu, nhưng lại thấy mình chẳng biết phải xây dựng trên cái gì, nhất là khi đã đánh mất ý thức lịch sử, ta như sống trong một nền văn hóa của quên lãng (amnesia) đối với quá khứ, một thứ bệnh Alzheimer có tính xã hội, phó mình hoàn toàn cho hiện tại thao túng. Vì thế càng cần phải chú tâm đến cái vương quốc khác kia, và cái ý chí khác kia, một ý chí thấu hiểu mọi thời mọi lúc.
Một cách nào đó, ta bắt đầu cảm thấy nhu cầu phải tươi sáng lên một chút, kẻo bị cái buồn của thế gian trấn áp mất. Dù sao, toàn bộ sứ điệp của Chúa Giêsu đã được phát biểu qua những lời sau: “ta nói những điều này với các con để niềm vui của ta hiện diện trong các con, và để niềm vui của các con nên trọn vẹn” (Ga 15:11). Hy vọng mà không vui mừng sẽ không là niềm hy vọng để thực thi, cùng lắm chỉ là niềm mong ước sao cho cái nhìn thảm hại của ta về sự vật không đến nỗi trật đường rầy. Vui mừng mà không hy vọng sẽ có tính áp chế (repressive), và là lời mời người ta rút lui khỏi cuộc đấu tranh. Chắc bạn sẽ cho hay cần cân bằng cả hai, nhưng phải là một cân bằng được duy trì bằng cách thèm muốn, ước ao và làm việc để hoàn tất ý thánh và ban sự sống của Chúa.
Một khía cạnh của niềm hy vọng đang phấp phới và của niềm vui liên hệ là đừng xem mình quá nghiêm chỉnh - đừng quá ý thức hệ. Tôi nhớ như in tôi đã cảm nhận hai mặt của một kinh nghiệm không cứu vãn được của thời gian sau Công đồng. Và rất ân hận về chúng. Một là việc áp đặt một thứ chuẩn mực chính trị (political correctness) cứng ngắc. Nó được biểu hiện qua việc phân chia vội vàng giữa những người cấp tiến và bảo thủ, mà không hề có ai thân hữu ở giữa. Công thức cho lời nói, cho cách ăn mặc, góc cạnh mới nhất, trở thành những phán định sau cùng và bất phản hồi. Tất cả chúng tôi đều có khuynh hướng nghĩ mình đã được Thánh Thần chân chính chiếm hữu để quản trị ân sủng Thiên Chúa và thi hành thánh ý Người, một thánh ý mà kỳ dị thay được đồng hóa với chính cách nhìn sự vật của riêng mình. Bây giờ thì điều đó có vẻ khôi hài trẻ con, nhưng tôi nhớ mình đã biện bác và cư xử nhân danh canh tân mà thực ra chẳng là chi khác ngoài cái thứ áp đặt và thao túng nông nổi điên khùng. Chúng tôi có cái nguy cơ gần như mất hết ý niệm dỡn đùa (humour), chỉ vì mình nghĩ về mình đầy ứ quá! Khi ta bỏ không thờ lạy ý Chúa, ta chẳng còn lại gì ngoài những kế hoạch nhỏ nhen muốn tạo tên tuổi hèn mọn cho chính mình… nhưng hãy nhớ: “nguyện danh Cha cả sáng”!
Chuyện nữa. Tôi nghĩ ít nhất tôi cũng đúng trong chuyện này, dù sai trong mọi vấn đề khác. Là một nhà thần học trẻ đi khắp nơi nói chuyện về các tài liệu của Công đồng, tôi nhớ lại đã có lúc mình đúng. Lúc đó chẳng ai nói về cầu nguyện nữa. Hứa hẹn canh tân chỉ là về những hình thức phụng vụ đúng, có một nền thần học đúng, và vân vân - những phương thức sâu sắc và nhẫn nại để cầu nguyện cũng như chú tâm xoáy vào Chúa và thánh ý Chúa Cha ít được đề cập tới, và theo tôi dường như chẳng còn ai thực hành nữa, khi các hình thức sùng kính cũ bị xóa bỏ. Trái lại, tôi coi việc này rất nghiêm chỉnh bởi lẽ cuốn sách đầu tiên tôi viết là về cầu nguyện (The Human Shape of Prayer: Giáng Dấp Nhân Bản của Cầu Nguyện). Một số người có lẽ đã đọc cuốn này, bởi lẽ một ấn bản lậu đã được in tại Ấn Ðộ. Dĩ nhiên, thời gian có thay đổi, vì ngày nay, thích thú cầu nguyện và cảm nghiệm về Chúa rất cao; linh đạo là một sự việc hơn là một thần học; hay đúng hơn, hơn là cái gì thuộc Giáo hội; và điều này làm nẩy sinh khá nhiều vấn đề: ‘linh đạo’ của riêng tôi hay ý Chúa Cha mới là việc trọng yếu? Nhưng rồi lại có việc hướng ngoại (extroversion) kỳ dị: hành động, cơ cấu đúng, công thức đúng trở thành điều cốt yếu. Tuy thế, một cách chậm chạp nhưng cương quyết, Chúa Thánh Thần dạy ta rằng chỉ có một đấng cứu vớt thế gian duy nhất, chứ không phải tôi hay anh, cũng chẳng phải Giáo Hoàng Gioan, hay Karl Rahner hoặc Yves Congar… cũng chẳng phải bất cứ ai trong vô số những nhà thời danh sẽ xuất hiện sau này. Chẳng cần phải khiêm nhượng nhiều tôi cũng thừa nhận rằng tôi đã phí quá nhiều thời gian đưa ra những nhận xét tiêu cực về người khác và các ý kiến của họ, mà không dành đủ thời gian để cổ vũ yếu tính và tâm điểm Phúc Âm. Ðấy là thời rất nhiều lời; cho đến cả bây giờ, ta vẫn thấy khó nói ra các sự việc một cách đơn giản. Nhưng kinh cầu thì vốn có một lời kinh hết sức đơn giản, “Nước Cha trị đến”. Sống cho trọn không phải do các ý niệm của ta mà có hay do các thiết kế về cơ cấu của ta mà đến, nhưng do hồng ân và hành động của Thiên chúa.
Ðồng thời, tôi nhớ lại ta thích nói về giáo dân biết là bao! Không phải nói về bạn đâu, mà là về cái lý tưởng vô vọng kia; một thứ giáo dân đúc khuôn từ phóng chiếu giáo sĩ, biết thế gian theo cách các linh mục và tu sĩ không biết tới, làm chứng cho Phúc âm theo cung cách các nhân vật ‘nhà thờ’ chúng tôi không tường, một nguồn tài nguyên từ trước đến nay chưa khai thác nhưng chứa chan hồng phúc Thánh Linh. Ðiều ấy dĩ nhiên đúng; nhưng vẫn còn một yếu tố vô thực tại nào đó ở đấy; và phải một thời gian liên hệ với các nhóm giáo dân ta mới hiểu ra sự kiện này là không một ai có đủ các câu trả lời, trái lại chúng ta hết thẩy đều cần tới nhau, cần đến nhau nhiều hơn là chính chúng ta vốn hiểu, và mỗi người trong chúng ta, xét cho cùng và ở mọi lúc, chỉ là những cành nhỏ của một cây nho hằng sống. Câu trả lời chỉ có khi ta phó mình cho Chúa Thánh Thần, theo chân Chúa Kitô và cầu nguyện với Người lời cầu nguyện mà chính Người dạy chúng ta: “nước Cha trị đến” !
Thế là chúng ta đang ở đây lúc này, 40 năm sau ngày khởi đầu của Công Ðồng, lúc này, chỗ này, với những con người này. Không, không bao giờ bạn có thể có quá nhiều vui mừng và hy vọng nếu ta hiểu các từ ngữ đó theo cảm nghiệm Kitô giáo. Tôi xin kết thúc với ba câu hỏi giúp niềm vui của ta trào dâng và niềm hy vọng của ta gia tăng:
1.Nay há không phải là lúc ta bắt đầu yêu lại Giáo hội sao, Người là mẹ chúng ta, là vương quốc của sự sống trong Chúa Thánh Thần, là cửa ngõ đưa ta tới Chúa Kitô, là nơi đại hiệp thông với cả đức Maria và các thánh, các tử đạo và tiên tri, những người thân yêu ra đi trước chúng ta, cả các thiên thần cùng tổng lãnh thiên thần (kh%C
Linh mục Anthony Kelly, Dòng Chúa Cứu Thế, tiến sĩ thần học, từng học tại Rôma, Toronto và Paris, nguyên chủ tịch Hội Thần học Công giáo Úc, hiện là trưởng ngành triết và thần học và giáo sư thần học tại Viện Ðại Học Công giáo Úc, được đức Gioan Phalô II cử làm thành viên Ủy ban Thần học Quốc tế của Tòa thánh. Tháng 8 năm 2003, trên tạp chí Australian Ejournal of Theology, cha viết một bài kỷ niệm Công đồng Vatican II tròn 40 tuổi.
Gaudium et Spes dĩ nhiên có nghĩa là vui mừng và hy vọng. Khi nhìn lại 40 năm qua, ta thấy niềm vui quả có thực tế hơn, và niềm hy vọng thì càng lớn hơn nhiều. Biến cố Vatican II vẫn còn đang diễn tiến, dù rất có thể nó không tưởng tượng được thế giới sẽ biến đổi ra sao.
Ðối với những con người thuộc thế hệ tôi, Vatican II vẫn còn rất rõ trong trí nhớ riêng của họ.Trong thời gian Công đồng, Rôma là nơi người ta cần phải hiện diện. Tôi có dịp tình cờ được làm phó tế cho một thánh lễ khai diễn một phiên họp trong ngày. Quả là giây phút ngây ngất được đọc Phúc âm cho các Nghị phụ nhóm họp. Nhưng đừng vội phổng mũi. Vai trò của tôi cũng bao hàm việc phải đội mũ tế (mitre) lên đầu một vị giám mục thừa sai người Canada nói tiếng Pháp, chắc chắn đây là dịp long trọng đối với ngài. Chẳng may, chiếc mũ như có lò so bật khỏi đầu ngài như chiếc hỏa tiễn. Chắc ngài nguyền rủa anh chàng phó tế người miền đối cực này lắm lắm. Dù sao, tôi cũng được xua qua một bên và từ đấy chẳng dám hó hé chi. Phải mình đã vui mừng và hy vọng quá chăng?
Hiến chế Mục vụ, Giáo hội Trong Thế giới Ngày nay, được hoàn thành vào cuối Công đồng, đã đưa Dân Chúa vào một cuộc đối thoại đầy tự tin và rộng mở với thế giới đương đại. Những chữ đầu hết của nó là “Vui mừng và Hy vọng”, Gaudium et Spes; những chữ sau này trở thành tiêu đề cho Hiến chế. Bốn mươi năm đã trôi qua kể từ ngày Công đồng khai mạc. Vậy mà ngày nay ta lại phải giáp mặt với một câu hỏi lạ: Có vui mừng quá và có hy vọng quá chăng?- vì cung cách thay đổi của thế giới, và cũng vì vậy mà ta thay đổi theo: tempora mutatur, et nos mutamur in illis như câu ngạn ngữ thường nói.
Từ ngày khai mạc Vatican II, một thế hệ rưỡi (một kiểu nói lạ lùng!) đã sinh ra. Cái thế hệ rưỡi ấy không biết đến Giáo hội ở bất cứ thời nào khác. Những người trẻ tuổi này thường bỡ ngỡ trước những hoài niệm lâu đời và những lòng trung thành kỳ dị của các lớp đàn anh. Họ không thể tưởng tượng nổi làm thế nào một công đồng lại có thể là một cú sốc cho được, làm thế nào mà người ta lại có thể cuống cả lên, làm thế nào nó lại có thể trở thành một thách đố, một nguy cơ hoặc ngay cả một thất bại nữa…
Một thế hệ cũng đã ra đi. Họ là những người khôn ngoan khi công đồng bắt đầu – đó chính là các nhà lãnh đạo có ảnh hưởng của Giáo hội, những thần học gia tài ba, các thành viên các hội dòng lớn, và một cộng đoàn rộng lớn gồm những người đàn ông và đàn bà từng hiến cả đời mình dưỡng dục con cái trong đức tin Công giáo.
Bây giờ tất cả những người ấy đã đi khỏi; được gom ra khỏi trần thế này nơi đầy những tra vấn, tìm tòi và chứng cớ nửa vời để bước vào huyền nhiệm sau hết. Nhiều người ra đi trong hy vọng, một hy vọng lớn hơn bao giờ hết. Nhưng tất cả đã ra đi khi chưa thấy giấc mơ lớn nào trở thành sự thực… Một số ra đi vỡ mộng và cay đắng vì số lượng, vận tốc và chiều sâu trong các thay đổi mong chờ.
Còn đối với chúng ta, những người sống hơn một thế hệ, có lẽ sự thật chính yếu của Công đồng nằm sâu trong chương 7 của tài liệu nói về Giáo hội: “Giáo hội lữ hành, trong các bí tích và định chế của mình, là những cái vốn thuộc thời đại này, mang theo mình dấu ấn trần gian, một dấu ấn sẽ qua đi, và chính Giáo hội cũng đứng vào hàng các tạo vật đang rên rỉ và đau đớn trong khi chờ đợi mạc khải của con cái Thiên Chúa”.
Chúng ta tiếp tục không được thừa hưởng chi ngoài Thiên Chúa, không được thừa hưởng chi ngoài ân sủng của Chúa Kitô, không được thừa hưởng chi ngoài những việc lạ lùng Chúa Thánh Thần có thể làm. Không Công đồng nào nói về Thiên Chúa, về mầu nhiệm Chúa Kitô và về đặc sủng Chúa Thánh Thần bằng Công đồng này. Con đường lữ hành của ta gặp rất nhiều khúc rẽ lạ trước khi giáp mặt với mầu nhiệm trung tâm của đức tin. Các hy vọng của ta không nằm ở điều gì khác; không nằm trong việc tìm lại được thuở vàng son ngày cũ mà cũng không nằm trong việc dựng nên một hình ảnh tươi tốt hơn cho hiện tại cũng như một Giáo hội được hoạch định hoàn chỉnh cho tương lai.
Ta tưởng ta có thể du hành miễn phí vào tương lai bằng cách bắt kịp với “Thế giới Hiện đại”: aggiornamento là đủ rồi! Nhưng trong bốn mươi năm qua, cái thế giới hiện đại ấy đã trở thành “thế giới hậu hiện đại” mất rồi, một thế giới hậu hiện đại trong đó chính trị tan vỡ, kinh tế sụp đổ, môi sinh co giật. Người ta đang mơ một trật tự thế giới mới. Nhưng nếu không có một lịch sử lớn hơn hay một truyền thống ân phúc của tình người, những giấc mơ ấy mặc tình cho sức mạnh của luật lệ hay vũ lực khuynh đảo.
Tôi tin chắc rằng cùng với việc mở màn cho một thiên niên kỷ mới, các tài liệu của Vatican II sẽ được các thế hệ sắp sinh ra đọc lại một cách hân hoan. Lần này họ đọc với một đức tin nghịch thường nhẹ hơn đi một chút, với nhiều chấp nhận hơn con đường khiêm hạ lữ hành, và dáo dác hơn trong việc tìm gặp Ðấng Khách Lạ đang đứng chờ ta ở mọi khúc rẽ.
Bạn có thể đặt một câu hỏi trong đầu để thảo luận, tỷ như: trong 40 năm qua thế giới đã thay đổi ra sao đến độ chính Công đồng cũng có thể đã không dự đoán được? Hệ thống thông tin hoàn cầu (WWW), thống nhất Châu Âu ngày một mạnh, cộng sản Sô-viết sụp đổ, phong trào nữ quyền xuất hiện, ý thức mới về môi sinh, man vàn cuộc chiến tranh, phong trào khủng bố mọc lên, chủ nghĩa tư bản toàn thắng, nước Mỹ bá quyền không còn ai thách thức, văn hóa tiêu thụ thống trị, dân số nhanh chóng già đi, kỹ thuật sinh học xuất hiện, thảm họa AIDS, chấm dứt phân biệt chủng tộc (Apartheid), triều đại Gioan Phaolô II, diệt chủng tại Campuchia và Rwanda, phanh phui không ngừng các gương xấu của giáo sĩ… đấy mới chỉ là một số, bạn có thể điền cho đủ theo cách riêng của mình! Giáo hội quả thấy mình trong một thế giới thường được mệnh danh là ‘hậu hiện đại’.
Câu hỏi trên đây của chúng ta đáng được thảo luận. Vì dù sao, vui mừng và hy vọng cần thấm nhiễm ý thức Kitô hữu, nếu ta muốn tin vào chứng tá Thánh Kinh và sứ điệp Công đồng. Bạn có thể lựa một vài thánh vịnh và nhận ra một kinh nghiệm cổ điển về lòng hy vọng từng nâng đỡ biết bao thế hệ tín hữu trong suốt 2,700 năm qua, lời cầu nguyện mà Chúa Giêsu thuộc lòng, mà Ðức Maria từng đọc, lời cầu tán tụng và than vãn vốn là nòng cốt các Giờ Kinh Phụng Vụ của Giáo hội:
“Sự cứu độ của người công chính đến từ Chúa;
Ngài ở đấy chở che trong buổi nghặt nghèo;
Chúa phù trợ và Người giải thoát;
Giải thoát họ khỏi ác nhân và thương cứu họ
Bởi họ ẩn náu nơi Người” (Tv 37: 39-40)
Hồn tôi hỡi, cớ sao phiền muộn? Sót sa phận mình?
Hãy cậy trông Thiên Chúa; vì tôi sẽ tán tụng Người,
Ðấng Cứu độ và Thiên Chúa của tôi.” (Tv 42: 6-7)
Ngoài ra, ta còn ca khúc diệu kỳ tán tụng lòng hy vọng trong thư Rôma đoạn 8, trong đó thánh Phalô miêu tả toàn bộ tạo vật đang rên xiết trong hành vi lâm bồn vĩ đại, chúng ta cũng cùng rên xiết và cả Chúa Thánh Thần nữa cũng cùng rên xiết với ta. Ngài viết: ‘trong hy vọng, chúng ta được cứu vớt’ (Rm 8:24). Và ngài tự hỏi: ‘Ai có thể phân cách chúng ta ra khỏi tình yêu Chúa Kitô? Phải chăng gian truân, khốn khó, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?’ (RM 8: 35). Tại sao ta không thêm ‘hay gương mù, khủng hỏang trung thành và lãnh đạo, hay bất cứ xụp đổ định chế hoặc bất cứ điều gì có thể đem xấu hổ, bối rối và tuyệt vọng đến cho ta’? Dù sao, Thánh Phaolô cũng rõ rệt ở chỗ này:
‘Nhưng không, trong mọi thử thách ấy, chúng ta là những kẻ chiến thắng nhờ Ðấng đã yêu thương chúng ta. Ðúng vậy, tôi tin chắc rằng cho dù là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương [=hiện trạng quỉ quái của bất cứ nền văn hóa đương đại nào], hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì có thể phân cách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta’ (Rm 8: 37-39).
Có lẽ ta nghĩ mọi chuyện sẽ dễ dàng hoặc những lời mở đầu trong tài liệu vĩ đại kia của Công đồng chỉ là một lý tưởng lãng mạn không hơn không kém:
“Vui mừng và hy vọng, sầu buồn và lắng lo của con người thời nay, nhất là của những ai túng nghèo và khốn khó cách này cách khác, đều là vui mừng và hy vọng, sầu buồn và lắng lo của môn đệ Chúa Kitô” (GS #1).
Không hề có cách gì êm đẹp để ta cảm nghiệm sầu buồn, lắng lo, túng nghèo và khốn khó; cũng chẳng có cách gì dễ dàng để ta bước vào vui mừng và hy vọng như đã hứa. Tuy nhiên niềm hy vọng thì thật rộng lớn và tóm thu: “Khi ta gieo vãi khắp mặt địa cầu các hoa trái của thiên nhiên và lao công ta – nhân phẩm, hiệp thông huynh đệ, và tự do – theo mệnh lệnh của Chúa và trong Thần Khí của Người, ta sẽ thấy chúng một lần nữa, được tẩy sạch mọi bợn nhơ tội lỗi, được rọi sáng và biến hình, lúc Chúa Kitô trình lên Chúa Cha vương quốc đời đời và phổ quát, vuơng quốc ‘của chân lý và công chính, vương quốc của thánh thiện và ân sủng, vương quốc của công bình, yêu thương và bình an’. Trên địa cầu này, vương quốc ấy hiện diện một cách huyền nhiệm; khi Chúa đến, vương quốc ấy bước vào hoàn hảo” (GS #39).
Ðiều ấy mời ta phải đọc kinh Lạy Cha một cách mới hẳn: ”Nguyện danh Cha cả sáng; nước Cha trị đến” – không phải danh khác, càng không phải danh ta; không phải nước khác, càng không phải nước ta!
Thật dễ hiểu khi nhiều người trong ta có khuynh hướng cho rằng nếu ta thương thế gian, ắt hẳn thế gian sẽ thương ta, và nhìn nhận Giáo hội ngay tức khắc như là tác nhân tạo nên một nhân loại tuyệt vời.
Về vấn đề này, ta từng được khuyến cáo rất rõ. Các cộng đoàn bé nhỏ bị vây khốn cách nay 1900 năm vẫn hằng nhắc nhớ nhau lời Chúa nói trước khi Người chịu đóng đinh rằng: “nếu thế gian ghét các con, các con hãy biết rằng nó ghét ta trước khi ghét các con. Nếu các con thuộc thế gian, thế gian sẽ yêu thương các con như những gì thuộc về nó. Nhưng vì các con không thuộc thế gian, mà chính ta chọn các con từ thế gian này, cho nên thế gian ghét các con” (Ga 15:18-19). Ðiều này không bào chữa cho bệnh hoang tưởng (paranoia); nhưng nó đáng được ghi nhớ, vì văn hóa nhân bản vốn có yếu tố sâu xa muốn tìm chiên thế tội ngay trong nó: bất cứ ai hay bất cứ điều gì dám thách thức những chân lý tự phục vụ nó hiển nhiên phải bị thanh trừng; muốn sống yên, thì đừng thách thức.
Hẳn bạn còn nhớ những câu nói của Friedrich Nietzsche, một triết gia vốn đưa ra một nhận định gây hiệu quả mạnh mẽ trên nền văn hóa hiện đại, nhất là trong nền văn hóa chữ nghĩa của nước Úc. Trong tác phẩm cuối cùng trước khi bị bệnh tâm thần, nhà triết học hàm hồ mà cuồng nhiệt nhất trong số các triết gia này viết như sau: “Quan niệm Kitô giáo về Thiên Chúa – Thiên chúa như vị thần của người bệnh, Thiên chúa như con nhện, Thiên chúa như thần thiêng – là một trong những quan niệm hủ hóa nhất về thần linh chưa bao giờ có trên mặt địa cầu. Nó đại diện cho mức thấp nhất trong khai triển đi xuống về thần linh. Thiên chúa suy thoái xuống thành mâu thuẫn với sự sống, thay vì phải biến hình nó và là khẳng định đời đời của nó! Thiên chúa như tuyên chiến chống lại sự sống, chống lại thiên nhiên, chống lại ý chí muốn sống! Thiên chúa – công thức cho mọi vu khống chống ‘trần gian này’, cho mọi láo khoét về ‘cõi bên kia’! Thiên chúa thần thiêng hóa hư vô, ý chí hư vô được công bố là thánh thiện” (1).
Có lẽ bạn sẽ cho rằng Công đồng, và tất cả những công bố chính tiếp theo Công đồng, là để trả lời cho cuộc tấn công của Nietzsche. Trong việc tái xác định nền nhân bản Kitô giáo lần này, không cụm từ nào được trích dẫn bằng những lời sau đây của thánh Irenaeus: “vinh quang Thiên chúa là chính con người khi sống trọn vẹn” – dù những lời kế tiếp của vị giám mục tử đạo thế kỷ thứ ba này ít khi được trích thêm, “… và sự sống con người là được thấy Thiên chúa”. Con người nhân bản ‘sống trọn vẹn’ hay ‘chủ nghĩa nhân bản siêu việt và toàn diện’ mà các đức giáo hoàng thường nhắc đến luôn, là để chống lại bất cứ cách hiểu nào về con người trong tương phản với phẩm giá nhân vị hay đi ngược lại tính toàn bộ các giá trị từng đưa ra để phục vụ phúc lợi nhân bản. Như linh cảm trước cơn khủng hoảng sắp tới, thần học đã đi vào con đường giải phóng trong cố gắng đem lại cho con người, bất kể cảm nghiệm áp bức của họ ra sao, một thúc đẩy để hy vọng thực tiễn, dù niềm vui còn phải hoãn lại.
Sự thực ta từng vật lộn với khá nhiều nghĩa về thế gian trong Tân Ước. Một đàng, “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi…” (Ga 3:16), và Chúa Kitô là ánh sáng và đấng cứu độ thế gian, tự hiến mình chuộc tội cho toàn thể thế gian, để biến đổi vũ trụ. Quả thật nhiều yêu thương ở đấy. Nhưng mặt khác, thế gian, dưới quyền lực sự ác, quả là kẻ thù tận mạng, một vương quốc mà không một môn đệ nào của Chúa Kitô có thể thuộc về, một kẻ thù mà Chúa Kitô đã toàn thắng. Như thế trong nó là cả một thảm kịch ánh sáng và bóng tối. Tân Ước không hề bận tâm đưa ra những phân biệt mà sau này người ta phải đưa ra: sự khác biệt giữa sáng tạo tốt đẹp của Chúa và những yếu tố trong văn hóa con người muốn loại bỏ Thiên Chúa và làm xấu diện mạo nhân bản, một lãnh vực tự phóng chiếu ngẫu thần và tự chiếm hữu ma quái dẫn đến tự hủy. Bất kể hy vọng có nghĩa như thế nào, bất kể vui mừng có nghĩa như thế nào, quả không khôn ngoan khi cho rằng cái vương quốc khác đang hiện hữu trong trái tim ta và trong lịch sử trong đó Giáo hội đang sống là một không gian của ngây thơ trong trắng và thiện tâm thiện chí. Ta không dám lý tưởng hóa hoàn cảnh dù vẫn tin vào tình yêu không điều kiện của Thiên Chúa đối với mọi tạo vật, và hân hoan vì sự kiện chiến thắng lớn đã đạt được mà không bị phản hồi trong việc phục sinh của đấng chịu đóng đinh: “can đảm lên; ta đã thắng thế gian!” (Ga 16:33).
Ðường ta đi còn dài. Thực vậy, niềm hứng khởi gan dạ ‘rất can đảm’ (như Ngài Humphrey thường nói), rất hy vọng, rất hân hoan của Công đồng đến lúc này xem ra đã nhường bước cho một cái gì thận trọng hơn nhiều. Một phần, và có lẽ là phần lớn nhất của vấn đề, là ta đã không hiểu cái ‘thế giới hậu hiện đại’ đang thay đổi nhanh chóng kia sẽ ra như thế nào, nhất là khi các biên giới giữa Giáo hội và thế gian xem ra có rất nhiều lỗ thủng (porous). Theo một nghĩa nào đó, Giáo hội không là gì khác hơn cái thành phần thế gian sống cho mầu nhiệm ân sủng phổ quát hiện đang tác động giữa lòng lịch sử con người, khi cái thành phần ấy làm việc và cầu nguyện cho nước Cha trị đến. Theo một cách nhìn khác, Giáo hội, trong tư cách thành phần thế gian, phải giáp mặt với thứ ‘hắc tử’ văn hóa đang hoành hành, tương tự như số tử vong khủng khiếp của trận dịch Hắc Tử (Black Death) tại Âu Châu thế kỷ 14 giết hại đến 40% dân số lúc đó. Ðiều đang xẩy ra khiến tất cả chúng ta cảm thấy bất hạnh dù nhìn vào mình theo bình diện định chế (hôn nhân, gia đình, luật pháp, chính trị, trật tự thế giới, giáo dục, kinh tế) hay theo bình diện bản thân: làm thế nào chịu được bấy nhiêu vấn đề? Ta như cảm thấy nhu cầu phải bắt đầu lại từ đầu, nhưng lại thấy mình chẳng biết phải xây dựng trên cái gì, nhất là khi đã đánh mất ý thức lịch sử, ta như sống trong một nền văn hóa của quên lãng (amnesia) đối với quá khứ, một thứ bệnh Alzheimer có tính xã hội, phó mình hoàn toàn cho hiện tại thao túng. Vì thế càng cần phải chú tâm đến cái vương quốc khác kia, và cái ý chí khác kia, một ý chí thấu hiểu mọi thời mọi lúc.
Một cách nào đó, ta bắt đầu cảm thấy nhu cầu phải tươi sáng lên một chút, kẻo bị cái buồn của thế gian trấn áp mất. Dù sao, toàn bộ sứ điệp của Chúa Giêsu đã được phát biểu qua những lời sau: “ta nói những điều này với các con để niềm vui của ta hiện diện trong các con, và để niềm vui của các con nên trọn vẹn” (Ga 15:11). Hy vọng mà không vui mừng sẽ không là niềm hy vọng để thực thi, cùng lắm chỉ là niềm mong ước sao cho cái nhìn thảm hại của ta về sự vật không đến nỗi trật đường rầy. Vui mừng mà không hy vọng sẽ có tính áp chế (repressive), và là lời mời người ta rút lui khỏi cuộc đấu tranh. Chắc bạn sẽ cho hay cần cân bằng cả hai, nhưng phải là một cân bằng được duy trì bằng cách thèm muốn, ước ao và làm việc để hoàn tất ý thánh và ban sự sống của Chúa.
Một khía cạnh của niềm hy vọng đang phấp phới và của niềm vui liên hệ là đừng xem mình quá nghiêm chỉnh - đừng quá ý thức hệ. Tôi nhớ như in tôi đã cảm nhận hai mặt của một kinh nghiệm không cứu vãn được của thời gian sau Công đồng. Và rất ân hận về chúng. Một là việc áp đặt một thứ chuẩn mực chính trị (political correctness) cứng ngắc. Nó được biểu hiện qua việc phân chia vội vàng giữa những người cấp tiến và bảo thủ, mà không hề có ai thân hữu ở giữa. Công thức cho lời nói, cho cách ăn mặc, góc cạnh mới nhất, trở thành những phán định sau cùng và bất phản hồi. Tất cả chúng tôi đều có khuynh hướng nghĩ mình đã được Thánh Thần chân chính chiếm hữu để quản trị ân sủng Thiên Chúa và thi hành thánh ý Người, một thánh ý mà kỳ dị thay được đồng hóa với chính cách nhìn sự vật của riêng mình. Bây giờ thì điều đó có vẻ khôi hài trẻ con, nhưng tôi nhớ mình đã biện bác và cư xử nhân danh canh tân mà thực ra chẳng là chi khác ngoài cái thứ áp đặt và thao túng nông nổi điên khùng. Chúng tôi có cái nguy cơ gần như mất hết ý niệm dỡn đùa (humour), chỉ vì mình nghĩ về mình đầy ứ quá! Khi ta bỏ không thờ lạy ý Chúa, ta chẳng còn lại gì ngoài những kế hoạch nhỏ nhen muốn tạo tên tuổi hèn mọn cho chính mình… nhưng hãy nhớ: “nguyện danh Cha cả sáng”!
Chuyện nữa. Tôi nghĩ ít nhất tôi cũng đúng trong chuyện này, dù sai trong mọi vấn đề khác. Là một nhà thần học trẻ đi khắp nơi nói chuyện về các tài liệu của Công đồng, tôi nhớ lại đã có lúc mình đúng. Lúc đó chẳng ai nói về cầu nguyện nữa. Hứa hẹn canh tân chỉ là về những hình thức phụng vụ đúng, có một nền thần học đúng, và vân vân - những phương thức sâu sắc và nhẫn nại để cầu nguyện cũng như chú tâm xoáy vào Chúa và thánh ý Chúa Cha ít được đề cập tới, và theo tôi dường như chẳng còn ai thực hành nữa, khi các hình thức sùng kính cũ bị xóa bỏ. Trái lại, tôi coi việc này rất nghiêm chỉnh bởi lẽ cuốn sách đầu tiên tôi viết là về cầu nguyện (The Human Shape of Prayer: Giáng Dấp Nhân Bản của Cầu Nguyện). Một số người có lẽ đã đọc cuốn này, bởi lẽ một ấn bản lậu đã được in tại Ấn Ðộ. Dĩ nhiên, thời gian có thay đổi, vì ngày nay, thích thú cầu nguyện và cảm nghiệm về Chúa rất cao; linh đạo là một sự việc hơn là một thần học; hay đúng hơn, hơn là cái gì thuộc Giáo hội; và điều này làm nẩy sinh khá nhiều vấn đề: ‘linh đạo’ của riêng tôi hay ý Chúa Cha mới là việc trọng yếu? Nhưng rồi lại có việc hướng ngoại (extroversion) kỳ dị: hành động, cơ cấu đúng, công thức đúng trở thành điều cốt yếu. Tuy thế, một cách chậm chạp nhưng cương quyết, Chúa Thánh Thần dạy ta rằng chỉ có một đấng cứu vớt thế gian duy nhất, chứ không phải tôi hay anh, cũng chẳng phải Giáo Hoàng Gioan, hay Karl Rahner hoặc Yves Congar… cũng chẳng phải bất cứ ai trong vô số những nhà thời danh sẽ xuất hiện sau này. Chẳng cần phải khiêm nhượng nhiều tôi cũng thừa nhận rằng tôi đã phí quá nhiều thời gian đưa ra những nhận xét tiêu cực về người khác và các ý kiến của họ, mà không dành đủ thời gian để cổ vũ yếu tính và tâm điểm Phúc Âm. Ðấy là thời rất nhiều lời; cho đến cả bây giờ, ta vẫn thấy khó nói ra các sự việc một cách đơn giản. Nhưng kinh cầu thì vốn có một lời kinh hết sức đơn giản, “Nước Cha trị đến”. Sống cho trọn không phải do các ý niệm của ta mà có hay do các thiết kế về cơ cấu của ta mà đến, nhưng do hồng ân và hành động của Thiên chúa.
Ðồng thời, tôi nhớ lại ta thích nói về giáo dân biết là bao! Không phải nói về bạn đâu, mà là về cái lý tưởng vô vọng kia; một thứ giáo dân đúc khuôn từ phóng chiếu giáo sĩ, biết thế gian theo cách các linh mục và tu sĩ không biết tới, làm chứng cho Phúc âm theo cung cách các nhân vật ‘nhà thờ’ chúng tôi không tường, một nguồn tài nguyên từ trước đến nay chưa khai thác nhưng chứa chan hồng phúc Thánh Linh. Ðiều ấy dĩ nhiên đúng; nhưng vẫn còn một yếu tố vô thực tại nào đó ở đấy; và phải một thời gian liên hệ với các nhóm giáo dân ta mới hiểu ra sự kiện này là không một ai có đủ các câu trả lời, trái lại chúng ta hết thẩy đều cần tới nhau, cần đến nhau nhiều hơn là chính chúng ta vốn hiểu, và mỗi người trong chúng ta, xét cho cùng và ở mọi lúc, chỉ là những cành nhỏ của một cây nho hằng sống. Câu trả lời chỉ có khi ta phó mình cho Chúa Thánh Thần, theo chân Chúa Kitô và cầu nguyện với Người lời cầu nguyện mà chính Người dạy chúng ta: “nước Cha trị đến” !
Thế là chúng ta đang ở đây lúc này, 40 năm sau ngày khởi đầu của Công Ðồng, lúc này, chỗ này, với những con người này. Không, không bao giờ bạn có thể có quá nhiều vui mừng và hy vọng nếu ta hiểu các từ ngữ đó theo cảm nghiệm Kitô giáo. Tôi xin kết thúc với ba câu hỏi giúp niềm vui của ta trào dâng và niềm hy vọng của ta gia tăng:
1.Nay há không phải là lúc ta bắt đầu yêu lại Giáo hội sao, Người là mẹ chúng ta, là vương quốc của sự sống trong Chúa Thánh Thần, là cửa ngõ đưa ta tới Chúa Kitô, là nơi đại hiệp thông với cả đức Maria và các thánh, các tử đạo và tiên tri, những người thân yêu ra đi trước chúng ta, cả các thiên thần cùng tổng lãnh thiên thần (kh%C