Trái tim Chúa tôi

Phạm Minh-Tâm
Thuở nhỏ, vừa nhỏ tuổi vừa nhỏ trí khôn, chưa biết nghĩ suy gì xa-xôi, lại càng không hiểu chữ và nghĩa thế nào, mà cứ người lớn bảo sao nghe vậy. Nhất là cung-cách theo đạo của tôi không ngoài các thói quen học nơi người lớn, mà các người lớn thì lại nhất mực theo cha, tức là cha xứ. Thành ra, các việc đọc kinh xem lễ chẳng hạn, cứ như thế mà “tập dữ tính thành”… Riết rồi vốn liếng tâm-linh của tôi cũng chỉ theo kiểu cầm chừng và hạn-hẹp như số đông, có sao nên vậy, nếu không muốn nói là chỉ trong giới-hạn một số biểu-lộ mà chưa hẳn là cảm-nhận thiêng-liêng. Hoặc chính-xác nhất phải nói là èo-uột.
Chẳng hạn, thời-gian tháng Sáu hàng năm là thời-gian Hội-thánh dành riêng để kính Thánh-tâm Chúa, tôi đã nghêu-ngao suốt các giờ lễ ở nhà thờ xứ, giờ kinh tối ở nhà, hát theo bàn dân thiên-hạ những bài hát về Trái Tim Chúa Giê-su, không cần biết đó là lời ca-tụng hay ý-nguyện-cầu…và hiểu biết rất lơ-tơ-mơ về tên gọi trái tim của Chúa là Thánh-tâm.
Lại nữa, hình như các ông các bà trong xứ đạo ở quê tôi ngày xa-xưa ấy, do đâu thì không biết, mà khi đã có được bài hát nào thì hát đến thuộc rồi cứ thế mà hát hoài theo quán-tính, không chọn lựa và cũng không đổi thay; ngay cả không cần nắm bắt cặn-kẽ ý nghĩa lời mình đang hát ra sao. Cho nên tôi đã thuộc nằm lỏng hai bài hát khác nhau. Rồi mỗi ngày mỗi nghĩ mới hiểu thêm, thì ra nhà thờ làng tôi vào thời-gian những năm 1950-1954 ấy, chọn hát bài của nhạc-sĩ Hoài Đức cũng là có “chủ đề” vì câu điệp-khúc cần phải xin… Giờ này đoàn con dâng lên lời nguyện xin tha thiết. Thánh Tâm Giêsu là Vua đất Việt muôn đời…Và cuối mỗi phiên-khúc có lời năn-nỉ thành-khẩn…Chúa ơi! Hãy ban xuống cho Việt Nam thanh bình. Còn bài hát ở nhà cùng ca đều mỗi tối là của nhạc-sĩ Huyền Linh …Thánh-tâm Chúa Giê-su, nguồn nhân ái vô ngần. Xin hãy thương giúp đoàn con một lòng mê say một Chúa. Thánh-tâm Chúa Giê-su tràn lan tình tha thứ. Xin thương những người đã trót vô tình xúc phạm đến Thánh-tâm Cha…Toàn ý đoạn này mãi đến giờ xem ra cũng vẫn đầy tràn tâm-ý tốt lành của một tín-hữu của mọi thời, mọi nơi; nhất là câu cuối Xin thương những người đã trót vô tình xúc phạm đến Thánh-tâm Cha…Song cái câu …Lạy Trái Tim Chúa Giêsu, là vua cai trị mọi loài. Xin Trái Tim Chúa làm vua, cai trị lòng con suốt đời…cứ được hát thêm ba lần trước khi chấm dứt buổi đọc kinh tối thì thành-thật mà nói, cho đến giờ tôi vẫn không nắm bắt được gì cả ngoài cảm-nghĩ cứ chỉ lo “ca” Chúa kiểu này trách gì cung-cách theo đạo Chúa nơi số đông tín-hữu Việt-Nam cũng chênh-vênh mơ-hồ như ngai vua cai trị của trái tim Chúa vậy.
Thành vậy mà, tôi cứ tưởng với cách bày-tỏ lòng mộ-mến được lập đi lập lại như vậy từ tấm bé thì đúng ra phải như kiểu nói “càng thêm tuổi càng thêm nhân-đức” mới đúng. Song biết bao năm qua đi mà tôi vẫn cứ ngu-ngơ khi muốn cố gắng hình-dung trái tim Chúa ra sao, nhất là càng hát càng thấy “siêu-siêu”. Càng thấy như danh không chính nên chẳng thấm-nhuần cụ-thể mà ngôn thì cũng không mấy thuận tai nên hát rồi cũng như không vì đầu óc cứ bị lùng-bùng với các nghĩa ngồ-ngộ, mà chẳng hiểu khi Chúa nghe chúng ta hát khen như thế thì Người có biết việc phải làm hay không nữa?
Có thể mọi tín-hữu đều nhớ, đều thuộc lịch Phụng-vụ rằng khoảng thời-gian Tháng Sáu mỗi năm là tháng Hội-thánh hướng vào tâm-tình tôn-kính Trái Tim Chúa. Song nếu một tín-hữu nào được hỏi ý nghĩa theo từng câu hát thuộc lòng trên kia thì thật chẳng mấy ai hiểu ra được điều gì để trả lời suông-sẻ như lòng Chúa mong đợi thế-gian nhận biết Người. Và không chừng, chính Chúa cũng “bó tay” không biết đám dân này đang nói gì và muốn gì về mình khi tâng-bốc mình rồi cột buộc cho mình trách-nhiệm… Thánh Tâm Giêsu là Vua đất Việt muôn đời, là vua cai-trị mọi loài… làm vua cai trị lòng con suốt đời …
Hát xong là xong cuộc sống đạo, là đã thực-hiện việc hành-đạo. Là yên-tâm đủng-đỉnh ra khỏi nhà thờ với vài ba khái-niệm mơ-hồ về hình ảnh chập-chờn hư-hư thực-thực của người có trái tim lạ-lùng kia.
Không. Chúa của tôi không là ảo-giác, không là cái bóng bên đường tôi đi. Chúa của tôi đã từng là một người bằng xương bằng thịt, sống giữa xã-hội loài người trong dáng-dấp giản-dị, bình-dân và vui-vẻ. Cho dù mang sứ-mệnh cứu-rỗi đến trần-gian, nhưng lại không lúc nào cũng làm ra vẻ “một người chính-trực siêu-phàm” trước đám dân sống đời bình-thường và thực-tế quanh mình.
Trên lộ-trình đến với muôn dân để rao giảng tin mừng cứu-rỗi, Chúa Giê-su đã cho tôi thấy rõ Người gắn-bó mật thiết với Thiên Chúa Cha và bằng tấm lòng quảng-đại bao dung hết mọi người trong từng thân-phận yếu hèn, tội-tỗi và đầy bất-toàn mà Người đang sống cùng, chứ không đem các quy-ước và giáo-điều ra để phân rẽ con người theo cách định-loại của các kinh-sư và Pha-ri-siêu.
Trong trái tim Chúa Giê-su không có mức độ cao thấp về địa-vị, học-thức hay lằn ranh phân-biệt về chính-kiến, lập-trường và quan-điểm. Tình-cảm Người trao ra ngang bằng như đồng lương ông chủ vườn nho trả cho thợ; cho dù ở giờ thứ ba, thứ chín hay giờ thứ mười một vì Người đặt nặng tương-quan giữa con người với nhau trong tình yêu mến hơn là cân, đo, đong, đếm…hơn thiệt như con người chúng ta ứng-xử với nhau.
Nếu nói trái tim là nơi vừa chất chứa vừa phát-xuất đủ loại tình-cảm hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục của một con người thỉ chỉ đúng với thế-gian sự thường. Với Đức Ki-tô thì khác, trái tim Người chỉ có yêu-thương làm nền tảng cho mọi tương-quan giữa Người với tha-nhân. Và đúng ra, mỗi khi hát dứt câu thì mỗi người nên thắc-mắc…ai là những người đã xúc phạm đến Thánh-tâm Cha…
Lời hát trên làm tôi nghĩ về các môn-đệ của Chúa trước, nhóm người cũng có thể là niềm tin tiên-khởi của thế-gian; mà còn hơn thế nữa, là những người duy-trì “đức tin tông-truyền”. Và bây giờ là những người kế-vị.
Người thế-gian thường tỏ vẻ đoán-xét nặng với Phê-rô và Giu-đa; đã đưa hai ông ra làm “biểu tượng” cho hai tội như người ta thường ví-von hay gán-ghép cho nhau, rằng “chối như Phê-rô chối Chúa” và “bán Chúa nhanh và gọn như Giu-đa”. Song chắc-chắn một điều là Đức Ki-tô thương cả hai ông môn-đệ này như nhau, dù cả hai ông đều phạm lỗi với Người. Một ông vì tham mà bán Thầy; tiền cầm chưa nóng tay thì đã run sợ vì biết rằng phản Thầy là tội lớn nên đem tiền đi trả lại rồi tự-tử. Hoá ra, trong tương-quan với Chúa, Giu-đa chỉ có lòng sợ mà không có tình yêu, cho nên ông thiếu niềm tin hoặc không cảm-nghiệm được lòng yêu thương của Chúa, nên đã tự đi ra ngoài trái tim của Người, tìm một chỗ tự huỷ-diệt. Còn ông Phê-rô, tôi tin chắc-chắn là ông thật sự yêu Chúa rất nhiều, nhiều hơn bất cứ ai, nên cho dù có vì nhát đảm hay yếu đuối đã liên-tiếp chối Chúa ba lần nhưng tình-cảm của ông với Chúa vẫn còn. Thành vậy, ông không thể bỏ Thầy, xa Thầy mà cứ lẽo-đẽo lẫn trong đoàn người đồng-hành cùng Chúa lên đồi Calvary. Và rõ-ràng là Chúa cũng vẫn yêu mến ông, chấp-nhận người môn-đệ yếu đuối và nhát gan này vì đó là bản-chất của con người ông Phê-rô như Chúa Cha dựng nên. Cuối cùng, chỉ cần Chúa quay lại nhìn là ông Phê-rô nhận ra ngay được tình yêu của Chúa. Để rồi trở thành người đứng đầu Hội-thánh, một Hội-thánh mang sứ-mạng yêu thương và phục-vụ.
Tuy nhiên, tôi nghĩ, khi nhìn Giu-đa đưa người đến bắt hay nghe rõ Phê-rô mở miệng chối ba lần thì Chúa không buồn và thấm-thía bằng khoảng thời gian thầy trò vừa cùng nhau đến Vườn Cây Dầu. Kinh Thánh thuật lại Chúa sầu não đến độ xuất mồ hôi máu. Vậy mà các môn-đệ đều yên-ổn ngủ say, không có một chút gì gọi là hiểu Thầy, chia sẻ hoàn-cảnh của Thầy, nói gì đến tâm-linh tương-thông. Khi Chúa nói “Anh em không thể cùng thức với Thầy một giờ hay sao” thì tôi không nghĩ đó là lời trách móc, mà là lời than tuyệt-vọng trong cô-đơn. Vậy thì ai đáng tội hơn ai.
Từ đó mà suy cho đến ngày nay, cho đến cách riêng trong cộng-đồng dân Chúa Việt-Nam đang hiện-hữu này, biết ai là người đã trót vô tình xúc phạm đến Thánh-tâm Cha? Phải chăng là tôi, là anh, là chị, là cha và con, là hết thảy chúng ta?
Tóm lại, tình yêu Chúa dành cho tôi, cho anh, cho mọi người là chất sống trong tim Chúa chia sẻ đồng đều cho chúng ta. Nó cũng giống như những nén bạc làm phần vốn Người cho mỗi ngưòi đem đi vào đời. Thành ra, khi đã đón nhận những nén bạc yêu thương này thì cũng là đã nhận trách-nhiệm phải cho chúng được sinh lời nơi trái tim từng người để san-sẻ cho nhau. Song lời cách nào và lời bao nhiêu thì chỉ có sự cảm-nghiệm từ chốn nội-tâm sâu-sắc về thiên-ý quan-phòng nơi mỗi tâm-hồn mới định được thôi. Thêm vào đó là tình yêu chân-thành phát xuất từ một trái-tim mở rộng, mà nếu không theo được như Trái Tim Chúa đã không ngừng nhỏ những giọt máu yêu thương thì cũng đừng co-cụm lại trong các định-kiến của mình về người, để rồi vô-cảm với nhau, điểm mặt chỉ tên nhau là bè này, phái nọ, nhóm kia…
Đó chính là chúng ta đã cố ý xúc-phạm đến Trái Tim Chúa tôi.

Phạm Minh-Tâm
Thuở nhỏ, vừa nhỏ tuổi vừa nhỏ trí khôn, chưa biết nghĩ suy gì xa-xôi, lại càng không hiểu chữ và nghĩa thế nào, mà cứ người lớn bảo sao nghe vậy. Nhất là cung-cách theo đạo của tôi không ngoài các thói quen học nơi người lớn, mà các người lớn thì lại nhất mực theo cha, tức là cha xứ. Thành ra, các việc đọc kinh xem lễ chẳng hạn, cứ như thế mà “tập dữ tính thành”… Riết rồi vốn liếng tâm-linh của tôi cũng chỉ theo kiểu cầm chừng và hạn-hẹp như số đông, có sao nên vậy, nếu không muốn nói là chỉ trong giới-hạn một số biểu-lộ mà chưa hẳn là cảm-nhận thiêng-liêng. Hoặc chính-xác nhất phải nói là èo-uột.
Chẳng hạn, thời-gian tháng Sáu hàng năm là thời-gian Hội-thánh dành riêng để kính Thánh-tâm Chúa, tôi đã nghêu-ngao suốt các giờ lễ ở nhà thờ xứ, giờ kinh tối ở nhà, hát theo bàn dân thiên-hạ những bài hát về Trái Tim Chúa Giê-su, không cần biết đó là lời ca-tụng hay ý-nguyện-cầu…và hiểu biết rất lơ-tơ-mơ về tên gọi trái tim của Chúa là Thánh-tâm.
Lại nữa, hình như các ông các bà trong xứ đạo ở quê tôi ngày xa-xưa ấy, do đâu thì không biết, mà khi đã có được bài hát nào thì hát đến thuộc rồi cứ thế mà hát hoài theo quán-tính, không chọn lựa và cũng không đổi thay; ngay cả không cần nắm bắt cặn-kẽ ý nghĩa lời mình đang hát ra sao. Cho nên tôi đã thuộc nằm lỏng hai bài hát khác nhau. Rồi mỗi ngày mỗi nghĩ mới hiểu thêm, thì ra nhà thờ làng tôi vào thời-gian những năm 1950-1954 ấy, chọn hát bài của nhạc-sĩ Hoài Đức cũng là có “chủ đề” vì câu điệp-khúc cần phải xin… Giờ này đoàn con dâng lên lời nguyện xin tha thiết. Thánh Tâm Giêsu là Vua đất Việt muôn đời…Và cuối mỗi phiên-khúc có lời năn-nỉ thành-khẩn…Chúa ơi! Hãy ban xuống cho Việt Nam thanh bình. Còn bài hát ở nhà cùng ca đều mỗi tối là của nhạc-sĩ Huyền Linh …Thánh-tâm Chúa Giê-su, nguồn nhân ái vô ngần. Xin hãy thương giúp đoàn con một lòng mê say một Chúa. Thánh-tâm Chúa Giê-su tràn lan tình tha thứ. Xin thương những người đã trót vô tình xúc phạm đến Thánh-tâm Cha…Toàn ý đoạn này mãi đến giờ xem ra cũng vẫn đầy tràn tâm-ý tốt lành của một tín-hữu của mọi thời, mọi nơi; nhất là câu cuối Xin thương những người đã trót vô tình xúc phạm đến Thánh-tâm Cha…Song cái câu …Lạy Trái Tim Chúa Giêsu, là vua cai trị mọi loài. Xin Trái Tim Chúa làm vua, cai trị lòng con suốt đời…cứ được hát thêm ba lần trước khi chấm dứt buổi đọc kinh tối thì thành-thật mà nói, cho đến giờ tôi vẫn không nắm bắt được gì cả ngoài cảm-nghĩ cứ chỉ lo “ca” Chúa kiểu này trách gì cung-cách theo đạo Chúa nơi số đông tín-hữu Việt-Nam cũng chênh-vênh mơ-hồ như ngai vua cai trị của trái tim Chúa vậy.
Thành vậy mà, tôi cứ tưởng với cách bày-tỏ lòng mộ-mến được lập đi lập lại như vậy từ tấm bé thì đúng ra phải như kiểu nói “càng thêm tuổi càng thêm nhân-đức” mới đúng. Song biết bao năm qua đi mà tôi vẫn cứ ngu-ngơ khi muốn cố gắng hình-dung trái tim Chúa ra sao, nhất là càng hát càng thấy “siêu-siêu”. Càng thấy như danh không chính nên chẳng thấm-nhuần cụ-thể mà ngôn thì cũng không mấy thuận tai nên hát rồi cũng như không vì đầu óc cứ bị lùng-bùng với các nghĩa ngồ-ngộ, mà chẳng hiểu khi Chúa nghe chúng ta hát khen như thế thì Người có biết việc phải làm hay không nữa?
Có thể mọi tín-hữu đều nhớ, đều thuộc lịch Phụng-vụ rằng khoảng thời-gian Tháng Sáu mỗi năm là tháng Hội-thánh hướng vào tâm-tình tôn-kính Trái Tim Chúa. Song nếu một tín-hữu nào được hỏi ý nghĩa theo từng câu hát thuộc lòng trên kia thì thật chẳng mấy ai hiểu ra được điều gì để trả lời suông-sẻ như lòng Chúa mong đợi thế-gian nhận biết Người. Và không chừng, chính Chúa cũng “bó tay” không biết đám dân này đang nói gì và muốn gì về mình khi tâng-bốc mình rồi cột buộc cho mình trách-nhiệm… Thánh Tâm Giêsu là Vua đất Việt muôn đời, là vua cai-trị mọi loài… làm vua cai trị lòng con suốt đời …
Hát xong là xong cuộc sống đạo, là đã thực-hiện việc hành-đạo. Là yên-tâm đủng-đỉnh ra khỏi nhà thờ với vài ba khái-niệm mơ-hồ về hình ảnh chập-chờn hư-hư thực-thực của người có trái tim lạ-lùng kia.
Không. Chúa của tôi không là ảo-giác, không là cái bóng bên đường tôi đi. Chúa của tôi đã từng là một người bằng xương bằng thịt, sống giữa xã-hội loài người trong dáng-dấp giản-dị, bình-dân và vui-vẻ. Cho dù mang sứ-mệnh cứu-rỗi đến trần-gian, nhưng lại không lúc nào cũng làm ra vẻ “một người chính-trực siêu-phàm” trước đám dân sống đời bình-thường và thực-tế quanh mình.
Trên lộ-trình đến với muôn dân để rao giảng tin mừng cứu-rỗi, Chúa Giê-su đã cho tôi thấy rõ Người gắn-bó mật thiết với Thiên Chúa Cha và bằng tấm lòng quảng-đại bao dung hết mọi người trong từng thân-phận yếu hèn, tội-tỗi và đầy bất-toàn mà Người đang sống cùng, chứ không đem các quy-ước và giáo-điều ra để phân rẽ con người theo cách định-loại của các kinh-sư và Pha-ri-siêu.
Trong trái tim Chúa Giê-su không có mức độ cao thấp về địa-vị, học-thức hay lằn ranh phân-biệt về chính-kiến, lập-trường và quan-điểm. Tình-cảm Người trao ra ngang bằng như đồng lương ông chủ vườn nho trả cho thợ; cho dù ở giờ thứ ba, thứ chín hay giờ thứ mười một vì Người đặt nặng tương-quan giữa con người với nhau trong tình yêu mến hơn là cân, đo, đong, đếm…hơn thiệt như con người chúng ta ứng-xử với nhau.
Nếu nói trái tim là nơi vừa chất chứa vừa phát-xuất đủ loại tình-cảm hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục của một con người thỉ chỉ đúng với thế-gian sự thường. Với Đức Ki-tô thì khác, trái tim Người chỉ có yêu-thương làm nền tảng cho mọi tương-quan giữa Người với tha-nhân. Và đúng ra, mỗi khi hát dứt câu thì mỗi người nên thắc-mắc…ai là những người đã xúc phạm đến Thánh-tâm Cha…
Lời hát trên làm tôi nghĩ về các môn-đệ của Chúa trước, nhóm người cũng có thể là niềm tin tiên-khởi của thế-gian; mà còn hơn thế nữa, là những người duy-trì “đức tin tông-truyền”. Và bây giờ là những người kế-vị.
Người thế-gian thường tỏ vẻ đoán-xét nặng với Phê-rô và Giu-đa; đã đưa hai ông ra làm “biểu tượng” cho hai tội như người ta thường ví-von hay gán-ghép cho nhau, rằng “chối như Phê-rô chối Chúa” và “bán Chúa nhanh và gọn như Giu-đa”. Song chắc-chắn một điều là Đức Ki-tô thương cả hai ông môn-đệ này như nhau, dù cả hai ông đều phạm lỗi với Người. Một ông vì tham mà bán Thầy; tiền cầm chưa nóng tay thì đã run sợ vì biết rằng phản Thầy là tội lớn nên đem tiền đi trả lại rồi tự-tử. Hoá ra, trong tương-quan với Chúa, Giu-đa chỉ có lòng sợ mà không có tình yêu, cho nên ông thiếu niềm tin hoặc không cảm-nghiệm được lòng yêu thương của Chúa, nên đã tự đi ra ngoài trái tim của Người, tìm một chỗ tự huỷ-diệt. Còn ông Phê-rô, tôi tin chắc-chắn là ông thật sự yêu Chúa rất nhiều, nhiều hơn bất cứ ai, nên cho dù có vì nhát đảm hay yếu đuối đã liên-tiếp chối Chúa ba lần nhưng tình-cảm của ông với Chúa vẫn còn. Thành vậy, ông không thể bỏ Thầy, xa Thầy mà cứ lẽo-đẽo lẫn trong đoàn người đồng-hành cùng Chúa lên đồi Calvary. Và rõ-ràng là Chúa cũng vẫn yêu mến ông, chấp-nhận người môn-đệ yếu đuối và nhát gan này vì đó là bản-chất của con người ông Phê-rô như Chúa Cha dựng nên. Cuối cùng, chỉ cần Chúa quay lại nhìn là ông Phê-rô nhận ra ngay được tình yêu của Chúa. Để rồi trở thành người đứng đầu Hội-thánh, một Hội-thánh mang sứ-mạng yêu thương và phục-vụ.
Tuy nhiên, tôi nghĩ, khi nhìn Giu-đa đưa người đến bắt hay nghe rõ Phê-rô mở miệng chối ba lần thì Chúa không buồn và thấm-thía bằng khoảng thời gian thầy trò vừa cùng nhau đến Vườn Cây Dầu. Kinh Thánh thuật lại Chúa sầu não đến độ xuất mồ hôi máu. Vậy mà các môn-đệ đều yên-ổn ngủ say, không có một chút gì gọi là hiểu Thầy, chia sẻ hoàn-cảnh của Thầy, nói gì đến tâm-linh tương-thông. Khi Chúa nói “Anh em không thể cùng thức với Thầy một giờ hay sao” thì tôi không nghĩ đó là lời trách móc, mà là lời than tuyệt-vọng trong cô-đơn. Vậy thì ai đáng tội hơn ai.
Từ đó mà suy cho đến ngày nay, cho đến cách riêng trong cộng-đồng dân Chúa Việt-Nam đang hiện-hữu này, biết ai là người đã trót vô tình xúc phạm đến Thánh-tâm Cha? Phải chăng là tôi, là anh, là chị, là cha và con, là hết thảy chúng ta?
Tóm lại, tình yêu Chúa dành cho tôi, cho anh, cho mọi người là chất sống trong tim Chúa chia sẻ đồng đều cho chúng ta. Nó cũng giống như những nén bạc làm phần vốn Người cho mỗi ngưòi đem đi vào đời. Thành ra, khi đã đón nhận những nén bạc yêu thương này thì cũng là đã nhận trách-nhiệm phải cho chúng được sinh lời nơi trái tim từng người để san-sẻ cho nhau. Song lời cách nào và lời bao nhiêu thì chỉ có sự cảm-nghiệm từ chốn nội-tâm sâu-sắc về thiên-ý quan-phòng nơi mỗi tâm-hồn mới định được thôi. Thêm vào đó là tình yêu chân-thành phát xuất từ một trái-tim mở rộng, mà nếu không theo được như Trái Tim Chúa đã không ngừng nhỏ những giọt máu yêu thương thì cũng đừng co-cụm lại trong các định-kiến của mình về người, để rồi vô-cảm với nhau, điểm mặt chỉ tên nhau là bè này, phái nọ, nhóm kia…
Đó chính là chúng ta đã cố ý xúc-phạm đến Trái Tim Chúa tôi.