2. Các Câu Hỏi Thần Học Căn Bản

33. Những đóng góp thần học liên quan đến bản chất và việc thực thi quyền tối thượng giáo hoàng rõ ràng khác nhau tùy theo bối cảnh tuyên tín của các tác giả. Tuy nhiên, bốn câu hỏi thần học căn bản luôn tái xuất hiện theo nhiều cách và mức độ khác nhau: nền tảng Kinh thánh của thừa tác vụ Phêrô; jus divinum [thần quyền]; quyền tối thượng tài phán; và ơn bất khả ngộ. Bốn câu hỏi này đã được xác định, cụ thể là trong ARCIC 1976, 24; ARCIC 1981; MERCIC 1986, 39–75. Một số cách tiếp cận và nhấn mạnh mới có thể được xác định trong cách giải quyết những câu hỏi này.

2.1. Nền Tảng Kinh Thánh

34. Cả thần học Chính thống giáo và Tin lành theo truyền thống đều phản đối cách giải thích của Công Giáo về “các văn bản Phêrô” trong Tân Ước, đặc biệt là cách trực tiếp trong đó Giáo Hội Công Giáo liên hệ thừa tác vụ của Giám mục Rôma với con người và sứ mệnh của Thánh Phêrô. Họ đặc biệt đặt câu hỏi về cách hiểu của Công Giáo về một số tài liệu tham khảo trong Kinh thánh, chẳng hạn như Mt 16:17–19 và Ga 21:15 f.

2.1.1. Một Cách Đọc Mới Về “Các Văn Bản Phê-Rô”

35. Khoa Giải thích hiện đại đã mở ra những viễn ảnh mới cho cách đọc chung về “các văn bản Phêrô” (xem L–CUS 1973, 9–13; ARCIC 1981, 2–9; Dombes 1985, 96–107; L–C Aus 2016, 23-42). Các cuộc đối thoại thần học đã thách thức các cách đọc Tân Ước theo kiểu tín phái.(12) Đối thoại Luther-Công Giáo Đức chủ trương rằng trong thần học Luther đương thời,

“Việc khảo sát có tính chú giải nhân vật Phê-rô trong Tân Ước cũng như vai trò của tông đồ Phao-lô đã cho phép ý nghĩa của trách nhiệm cá nhân đối với sự hiệp thông và hiệp nhất của giáo hội được nhìn nhận lại” (L–C Germ 2000, 183). Thật vậy, các cuộc đối thoại đã tạo điều kiện cho việc tái khám phá theo kiểu chú giải tính ưu việt của Phê-rô trong số các tông đồ trong thời kỳ Chúa Giêsu thi hành thừa tác vụ, cũng như trong giáo hội sau lễ Phục sinh. Simon Phêrô có một vị trí đặc biệt trong số mười hai người: ngài luôn được nêu tên đầu tiên trong danh sách và được gọi là “đầu tiên” (Mt 10:2); ngài là một trong những người đầu tiên được gọi (Mt 5:18, Jn 1:42); đôi khi ngài được miêu tả là người phát ngôn cho các môn đệ khác (Mt 16:16, Công vụ 2:14); ngài được nêu tên là người đầu tiên trong số các chứng nhân tông đồ của Chúa Giêsu phục sinh (1 Cr 15:5, Lc 24:34); ngài là người nhận được chìa khóa của nước thiên đàng (Mt 16:18); người tuyên xưng và rao giảng đức tin chân chính (Mt 16:16; Công vụ 2) và là người mang thừa tác vụ duy nhất của sự hiệp nhất (Ga 21, Lc 22:32). Cuộc đối thoại quốc tế giữa Công Giáo và Cải cách cũng có thể nhìn nhận “trong Tân Ước, rằng một chứng từ được đưa ra cho thừa tác vụ đặc biệt được Chúa Kitô ban cho Nhóm Mười Hai, và cho Thánh Phêrô trong nhóm Mười Hai đó” (R–C 1977, 95).

Trên cơ sở tái khám phá này, các Kitô hữu khác đã có được sự đánh giá mới về phép loại suy đã được rút ra giữa vai trò của Thánh Phêrô trong số các tông đồ và vai trò của Giám mục Rôma trong số các giám mục đồng nghiệp của ngài (xem LG 22). Phép loại suy này cho phép ARCIC I tuyên bố: “Có thể nghĩ rằng quyền tối thượng của giám mục Rôma không trái với Tân Ước và là một phần trong mục đích của Chúa liên quan đến sự hiệp nhất và tính Công Giáo của Giáo hội, trong khi thừa nhận rằng các bản văn Tân Ước không đưa ra đủ cơ sở cho điều này” (ARCIC 1981, 6–7). Trong cùng tinh thần này, cuộc đối thoại Luther-Công Giáo Đức đã thừa nhận rằng: “Những tuyên bố trong Tân Ước về Phê-rô cho thấy rằng giáo hội sơ khai đã kết hợp vào nhân vật Phê-rô các chức năng của một thừa tác vụ giảng dạy và mục vụ liên quan đến tất cả các giáo đoàn và đặc biệt tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp nhất của họ. Đây chính là thách thức hiện tại để cùng nhau suy nghĩ trong các giao dịch chung của chúng ta theo một cách hoàn toàn mới về một thừa tác vụ Phêrô cho toàn thể giáo hội” (L–C Germ 2000, 163).

____________________________________________

(12). Một ví dụ điển hình về cách đọc theo kiểu tín phái như vậy được tìm thấy trong Luận thuyết Luther về Quyền lực và Quyền tối thượng của Giáo hoàng, 1537, op. cit. tr. 332–340, đã trở thành một phần của các trước tác tín phái được biên soạn trong Sách Hòa hợp [book of Concord] (1580).

_________________________________________

36. Người Công Giáo cũng đã bị thách thức trong việc nhận ra và tránh việc phóng chiếu không đúng thời điểm tất cả các diễn biến về học thuyết và thể chế liên quan đến thừa tác vụ của giáo hoàng vào “các bản văn Phêrô”, và khám phá lại sự đa dạng của các hình ảnh, cách giải thích và mô hình trong Tân Ước. Trước hết, họ đã khôi phục lại một bức tranh toàn diện hơn về Phêrô. Như Đức Gioan Phaolô II đã ghi chú trong Ut unum sint (90–91), Phêrô không chỉ là “đá” được Chúa Giêsu đặt tên (Mt 16:18; Ga 1:42; Mc 1:42); mà còn là một ngư dân truyền giáo (Lc 5, Ga 21); một chứng nhân và tử đạo (1 Cr 15:5; cf. Ga 21:15–17; 1 Pr 5:1); một con người yếu đuối, một tội nhân ăn năn, bị Chúa Kitô khiển trách và bị Phaolô phản đối (Mc 8:33; Mt 16:23; Mc 14:31, 66–72; Ga 21:15–17; Gl 2:5). Đức Gioan Phaolô II kết luận: “Giống như thể, trong bối cảnh sự yếu đuối của con người Phêrô, người ta thấy rõ ràng rằng thừa tác vụ cụ thể của ngài trong Giáo hội hoàn toàn xuất phát từ ân sủng” (UUS 91).

37. Người Công Giáo đã có được nhận thức mới về những cách giải thích khác nhau về “các bản văn Phêrô”, đặc biệt là Mt 16: 17–19. Như Nhóm desDombes đã chỉ ra: “Ngay từ khi xuất hiện trong văn học giáo phụ vào đầu thế kỷ thứ ba, các cách giải thích về Mt 16:17–19 đã đa dạng: chúng áp dụng lời Chúa Giêsu nói với Phê-rô cho mọi Ki-tô hữu vì đức tin của họ, hoặc cho tất cả các tông đồ và những người kế vị họ là các giám mục, hoặc cuối cùng cho con người tông đồ Phê-rô, hoặc vì chính ngài được đặt làm nền tảng của Giáo hội, hoặc vì lời tuyên xưng đức tin của ngài là nền tảng của Giáo hội.

Nhưng không bao giờ được quên rằng viên đá đầu tiên trên đó Giáo hội được xây dựng chính là Chúa Kitô” (Dombes 1985, 96). Một cách giải thích đại kết về Mt 16:17–19 không đối lập với những cách giải thích này mà đưa ra ba chiều kích bổ sung trong lời truyên xưng đức tin của Giáo Hội: một chiều kích cộng đồng, một chiều kích hợp đoàn và một chiều kích bản thân (id., 103).

38. Người Công Giáo đã tái khám phá tính đa dạng của vai trò lãnh đạo trong Tân Ước, vì “trách nhiệm lãnh đạo mục vụ không chỉ giới hạn ở Phêrô” (ARCIC 1981, 4; xem thêm ARCIC 2018, 34).

Ví dụ, cụm từ ‘buộc và tháo’ được sử dụng trong Mt 16:19 cho Phêrô, xuất hiện lại trong Mt 18:18 trong lời hứa của Chúa Kitô với tất cả các môn đệ. Tương tự như vậy, nền tảng trên đó Giáo hội được xây dựng có liên quan đến Phêrô trong Mt 16:18, nhưng cũng liên quan đến toàn thể bộ phận tông đồ trong các văn bản khác (ví dụ: Eph 2:20). Mặc dù Phêrô là người phát ngôn tại Lễ Ngũ Tuần, nhưng nhiệm vụ công bố Tin mừng cho toàn thế giới đã được Chúa Kitô phục sinh giao cho Mười một người (Công vụ 1:2–8). Hơn nữa, Phê-rô không phải là người duy nhất thực hiện ‘thừa tác vụ hiệp nhất’ trong Giáo hội sơ khai: Phao-lô thực hiện một chức năng tương tự cho các khu vực được ngài mở rộng hoạt động truyền giáo của mình, đặc biệt là giữa những người Ngoại giáo, được diễn tả như một “mối quan tâm đến mọi hội thánh” (2 Cô-rinh-tô 11:28, xem thêm Ga-lát 2:7–8; 1 Cô-rinh-tô 9:1); và Gia-cô-bê, anh em của Chúa, trong thư Công Giáo của mình nói đến Mười hai chi tộc trong Phân Tán (Diaspora) (Gia-cô-bê 1:1). Hơn nữa, Tân Ước đề cập đến sự hợp tác và quyết định chung giữa Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan, những người được Phao-lô chỉ định là “trụ cột của hội thánh” (Ga-lát 2:9), và các Tông đồ khác và những người lãnh đạo cộng đồng (Ga-lát 2:7–9; 1 Cô-rinh-tô 9:1; Công vụ 15:2).

39. Cuối cùng, người Công Giáo cũng phải đối diện với những quan điểm khác về vấn đề khả năng truyền lại [transmissibility] thừa tác vụ Phêrô. Một số cuộc đối thoại thần học thừa nhận rằng “Tân Ước không có ghi chép rõ ràng nào về việc truyền lại quyền lãnh đạo của Phêrô; cũng như việc truyền lại thẩm quyền tông đồ nói chung không thực sự rõ ràng” (ARCIC 1981, 6). Nếu trong các chương đầu tiên của Công vụ, Giáo hội Jerusalem xuất hiện như là Giáo hội mẹ, thì “Tân Ước không nói ở chỗ nào rằng một Giáo hội khác đã tiếp quản từ Giáo hội Jerusalem: quyền tối thượng của Giáo hội Phêrô và Phaolô, có nghĩa là của Rôma, là một sự kiện sau Tân Ước” (Dombes 1985, 117, xem thêm ARCIC 2018 35 và 42).

2.1.2. “Episcope” Hoặc “Thừa Tác Vụ Giám Sát” Ở Bình Diện Phổ Quát

40. Trong khi thừa nhận vị trí đặc biệt của Phê-rô trong số các tông đồ, một số cuộc đối thoại đã thích đóng khung những suy gẫm của họ về thẩm quyền trên khái niệm rộng hơn của Kinh thánh về episcope. Cách tiếp cận này nhấn mạnh đến điều mà tất cả những người thực hiện thừa tác vụ episcope đều có trước khi công nhận sự xuất hiện của thừa tác vụ giám mục nguyên thủy và việc thực hiện thừa tác vụ này một cách đặc biệt ở bình diện phổ quát (xem ARCIC 1981 5, 19). ARCIC I nhận ra rằng “mô hình các khía cạnh tối thượng và công đồng bổ túc cho nhau của episcope phục vụ cho koinonia của các giáo hội cần phải được hiện thực hóa ở bình diện phổ quát” (ARCIC 1976, 23). “Những cấp bách của đời sống giáo hội đòi hỏi một thao tác cụ thể của episcope để phục vụ toàn thể Giáo hội. Trong mô hình được tìm thấy trong Tân Ước, một trong mười hai người được Chúa Giêsu Kitô chọn để củng cố những người khác để họ sẽ trung thành với sứ mệnh của mình và hòa hợp với nhau” (ARCIC 1999, 46). Cùng một khái niệm đã được sử dụng trong cuộc đối thoại quốc tế Công Giáo-Cải cách: “Chúng tôi đồng ý về nhu cầu có giám mục trong Giáo hội, ở bình diện địa phương (để chăm sóc mục vụ trong mỗi giáo đoàn), ở bình diện khu vực (để liên kết các giáo đoàn với nhau), và ở bình diện hoàn cầu (để hướng dẫn sự hiệp thông siêu quốc gia của các giáo hội)”, trong khi thừa nhận rằng “có sự bất đồng giữa chúng tôi về ai được coi là giám mục ở các bình diện khác nhau này và chức năng hoặc vai trò của giám mục là gì” (R–C 1990, 142).

2.1.3. Thẩm Quyền Như Diakonia

41. Dựa trên khoa chú giải đương thời, các cuộc đối thoại thần học nhấn mạnh rằng thẩm quyền và việc phục vụ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Như ARCIC đã nêu, “Theo lời dạy của Chúa Giêsu rằng quả thực lãnh đạo là phục vụ chứ không phải thống trị người khác (Luca 22:24tt), vai trò của Phêrô trong việc củng cố anh em (Luca 22:32) là sự lãnh đạo phục vụ” (ARCIC 1981, 6). Đối thoại quốc tế Chính thống giáo–Công Giáo cũng nhấn mạnh rằng “việc thực hiện thẩm quyền được thực hiện trong Giáo hội, nhân danh Chúa Kitô và bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần, phải, dưới mọi hình thức và ở mọi bình diện, là một sự phục vụ (diakonia) của tình yêu, như Chúa Kitô đã làm” (O–C 2007, 14).

Không còn nghi ngờ gì nữa, “Chúa Giêsu Kitô liên kết việc ‘làm đầu’ này với việc phục vụ (diakonia): ‘Ai muốn làm đầu thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người’ (Mc 9:35)” (O–C 2016, 4; xem thêm UUS 88).

42. Do đó, thẩm quyền gắn liền chặt chẽ với mầu nhiệm thập giá và sự tự hủy của Chúa Kitô. Như Nhóm Thánh Irenaeus đã nêu, thẩm quyền trong Giáo hội phải được hiểu là “phục vụ dân Chúa dựa trên quyền năng của Thập giá”, vì “bất cứ việc sử dụng quyền lực nào trong Giáo hội chỉ có ý nghĩa nếu được thực hiện theo mô hình của Chúa Kitô bị đóng đinh, như một sự phục vụ chứ không phải là một cách để thống trị người khác (x. Mc 10:42-45 par; Ga 13:1-17)”, một sự phục vụ bao gồm “bổn phận chịu trách nhiệm trước cộng đồng ở các bình diện khác nhau”. Theo nghĩa này, việc thực hiện thẩm quyền phải được mô phỏng theo tấm gương tự hủy của Chúa Kitô, “như một sự phục vụ bao gồm sự sẵn lòng thực hành việc từ bỏ bản thân (‘tự hủy’, x. Pl 2:5-11; Mt 23:8-12)” (Thánh Irenaeus 2018, 13).

Còn tiếp