Công đồng chung đầu tiên của thế giới Kitô giáo khai mạc tại Nixêa, nay là Iznik của Thổ Nhĩ Kỳ, vào ngày 20 tháng 5, và kết thúc vào ngày 25 tháng 7, năm 325. Để kỷ niệm ngày Bế mạc Công đồng này, Tạp Chí Aleteia, ngày 26 tháng 7, 2025, đã cho đăng tải một số bài báo liên quan xa gần tới nó. Cha Nguyễn Hữu Quảng đã cho phổ biến bài “Kỷ niệm 1700 Công đồng Nixêa: Đức Giáo Hoàng Lêô, tìm kiếm sự thống nhất, và từ đây chúng ta sẽ đi về đâu” trên VietcatholicNews ngày 25 tháng 7. Chúng tôi lần lượt trích dịch các bài còn lại để độc giả có cái nhìn tương đối đầy đủ hơn về Công đồng này và tầm quan trọng của nó đối với sự hiệp nhất giáo hội Kitô, ngay lúc này.
Những vấn đề trọng tâm được quyết định tại Công đồng Nixêa

Bài đầu tiên của Nữ tu Marie-Hélène Robert, đăng ngày 27/02/2025. Nữ tu vốn là một chuyên gia về Công đồng Nixêa. Bà viết:
Công đồng chung đầu tiên trong lịch sử Giáo hội (được tổ chức tại Nixêa năm 325) không được triệu tập vì những vấn đề nhỏ nhặt! Vào thời các tông đồ, Công đồng Giêrusalem (Công vụ 15) đã phải giải quyết vấn đề quyết định liên quan đến việc tiếp nhận Kitô hữu từ thế giới ngoài Do Thái. Công đồng quyết định rằng họ không cần phải chịu phép cắt bì và tuân giữ luật Môsê để trở thành Kitô hữu. Sau đó, nhiều công đồng địa phương đã được triệu tập từ thế kỷ thứ hai trở đi để giải quyết các vấn đề về kỷ luật giáo hội hoặc các điểm tín lý đang bị tranh luận.
Một bất đồng nghiêm trọng về tín lý
Năm ấy là năm 325 và các cuộc bách hại đã kết thúc. Hoàng đế Constantine I đã khôi phục hòa bình chính trị cho đế quốc. Nhưng ông nghe nói về một bất đồng nghiêm trọng về tín lý giữa giám mục Alexandria và một trong những linh mục của ngài, Ariô, đã nổ ra vào năm 318. Một công đồng địa phương đã không thể giải quyết được vấn đề này.
Vấn đề ngày càng leo thang. Hoàng đế dự định thiết lập hòa bình tôn giáo. Ông triệu tập một công đồng chung tại Nixêa, nay là Iznik, ở Thổ Nhĩ Kỳ. Công đồng quy tụ hơn 300 giám mục—phần lớn đến từ đế quốc và 90% trong số họ nói tiếng Hy Lạp—cùng với các phó tế, nhà thần học và triết gia, một số người không phải là Kitô hữu. Hoàng đế chịu trách nhiệm về mọi mặt hậu cần. Các sắc lệnh phải được công bố và áp dụng trên toàn thế giới (oikumene).
20 điều luật mà họ ban hành đều liên quan đến các vấn đề về kỷ luật giáo luật. Cũng có vấn đề về một ngày chung để cử hành Lễ Phục Sinh cho các Kitô hữu: tất cả phải chấm dứt liên hệ với ngày Lễ Vượt Qua của người Do Thái, mà một số cộng đồng vẫn giữ. Vấn đề về bản chất thần linh của Chúa Con, bị Ariô bác bỏ, chiếm phần lớn các cuộc tranh luận.
“Đồng bản thể với Chúa Cha”
Cuộc đối đầu này đặt ra câu hỏi về chính cốt lõi của đức tin Kitô giáo: sự cứu rỗi nhờ Chúa Kitô, Thiên Chúa thật và người thật. Liệu Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, là một tạo vật của Thiên Chúa, như Ariô chủ trương, hay chính Thiên Chúa, Đấng duy nhất có thể cứu rỗi? Ariô phủ nhận tính vĩnh cửu của Chúa Con, và biến Người thành một tạo vật phụ thuộc vào Chúa Cha, để không làm lu mờ duy nhất tính và thần tính của Thiên Chúa. Để diễn tả sự hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con, từ khóa “đồng bản thể” (homoousios trong tiếng Hy Lạp) được dùng để giải thích: từ này không bổ sung bất cứ nội dung nào cho dữ liệu Kinh Thánh. Tuy nhiên, các từ ousia và homoousios sẽ gây ra những cuộc tranh luận kéo dài. Ý nghĩa của từ triết học ousia (bản tính, bản thể) tại Công đồng Nixêa đã tạo ra sự xung đột - chẳng hạn như trong trường hợp của Basil và Gregory thành Nyssa - với việc sử dụng cạnh tranh của từ hypostasis (ngôi vị).
Hơn nữa, tà thuyết Kitô học của Ariô, một tà thuyết bị phản đối tại Công đồng Nixêa, đã nghi vấn quan điểm Kinh Thánh về hữu thể nhân bản, và mở ra một tà thuyết nhân học có thể xảy ra.
Thuật ngữ triết học cho các khái niệm thần học
Việc sử dụng các thuật ngữ triết học hoàn toàn không phải là sự phủ nhận hay thay thế ngôn ngữ Kinh Thánh. Hơn nữa, Kinh Tin Kính chủ yếu sử dụng ngôn ngữ Kinh Thánh, chủ yếu trích từ Tin Mừng Gioan: Chúa Giêsu là Thiên Chúa (Ga 1:1), là ánh sáng (Ga 8:12; 9:1-7), là Thiên Chúa thật (1 Ga 5:20), là Đấng được sinh ra (Ga 1:13), nhờ Người mà muôn vật được tạo thành (Ga 1:3; Cl 1:16 và 1 Cr 8:6).
Và Kinh Tin Kính sử dụng những công thức giải thích ousia chung của Chúa Cha và Chúa Con: với “được sinh ra”, Kinh Tin Kính thêm “không phải được tạo thành”, để đáp lại các luận đề của Ariô. Với cùng ý định đó, Kinh Tin Kính chỉ rõ “ánh sáng bởi ánh sáng” và “Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật”.
Bằng cách tiếp thu các thuật ngữ Kinh Thánh và giải thích chúng bằng các thuật ngữ triết học trong định nghĩa đại kết về đức tin, Công đồng đã mở ra một trang mới. Công đồng đã thánh hiến sự phong phú của nỗ lực thần học trong việc giải thích Kinh Thánh.
Thẩm quyền của Công đồng
Công đồng Nixêa công nhận thẩm quyền của Giáo hội, được tập hợp trong một Công đồng chung, để xác định nội dung đức tin Kitô giáo bằng một định nghĩa mang tính tín điều, thể hiện sự tiến bộ trong việc giải thích những điều đã được mặc khải.
Đức tin là một chân lý cần được tin và hiểu. Những quyết định quan trọng liên quan đến đức tin phải được đưa ra trong Công đồng chung, với sự tham gia của đại diện toàn thể nhân loại, chứ không phải theo cách phân chia theo khu vực. Sự căng thẳng giữa địa phương và hoàn cầu, giữa chủ nghĩa đại kết thống nhất và quyền tự chủ hợp pháp, vẫn là một vấn đề quan trọng trong và giữa các Giáo hội.
Mặc dù chúng ta đang ở một thời đại khác, chúng ta vẫn cần xem xét quyền tự chủ hợp pháp của chính quyền thế tục và vị trí của Giáo hội trong xã hội dân sự.
Di sản Công đồng Nixêa cũng là sự đan xen giữa các quyền lực chính trị và tôn giáo. Điều này có thể thấy rõ qua vai trò của hoàng đế trong việc tổ chức hậu cần cho biến cố và các hậu quả của nó. Trong bối cảnh thời La Mã, sự can thiệp của thế tục vào tôn giáo khá phổ biến. Constantine đã kế thừa điều này.
Mặc dù chúng ta đang ở một thời đại khác, chúng ta vẫn cần xem xét quyền tự chủ hợp pháp của chính quyền thế tục và vị trí của Giáo hội trong xã hội dân sự. Nhưng chúng ta cũng cần phải giải thích lý do tại sao và bằng cách nào các lĩnh vực chính trị và xã hội thường xuyên áp đặt hình ảnh Chúa Kitô, ngay cả bên ngoài bối cảnh tôn giáo, bằng cách biến Người thành một vai trò bắt nguồn từ tín lý của Người (nhà tiên tri, nhà cách mạng). Việc phổ thông hóa Chúa Giêsu này cũng là một cách gián tiếp xóa bỏ bản sắc thần thánh của Người.
Di sản của Công đồng
Công đồng Nixêa đã tuyệt thông Ariô và chính thức hóa sự tách biệt giữa người Do Thái và Kitô hữu. Nhưng nó cũng đặt nền móng cho việc đối thoại với các nền văn hóa đương thời, đặc biệt là trong một thế giới đa văn hóa và đa tôn giáo.
Công đồng Nixêa được trải nghiệm trong bối cảnh Kitô giáo, nhưng nó vẫn có lập trường tôn trọng Do Thái giáo và các tín ngưỡng của thời Cổ đại. Trái với niềm tin phổ biến, Do Thái giáo quan niệm về tính thân xác (hữu hình) của Thiên Chúa theo nhiều cách. Một nền chú giải về Kinh Tin Kính Nixêa làm sáng tỏ việc nó bám chặt Giao Ước Thứ Nhất ra sao. Nếu thần học được phát triển trong sự giao thoa giữa đức tin và văn hóa, điều này không phải là không có ý nghĩa đối với việc công bố Tin mừng trong những bối cảnh mới.
Vào thế kỷ thứ năm, tại Rôma, Công đồng Nixêa có thể được đọc lại để biện minh cho việc phục vụ phổ quát tính hiệp nhất và tính ưu việt của Tông tòa Rôma trong mối quan hệ với các tòa khác. Về phần mình, Đông phương nhấn mạnh rằng Công đồng Nixêa đã tạo điều kiện cho việc phát triển và cấu trúc tính công đồng và tính hiệp đoàn để củng cố sự hiệp nhất Kitô giáo.
Sự tiếp nhận kép này có thể được xem xét từ cả góc nhìn thượng nguồn và hạ nguồn. Thượng nguồn, thực hành này kế thừa các thực hành công đồng của thế kỷ thứ hai, vốn tìm cách xác định đức tin chung theo các tiêu chuẩn vẫn còn phù hợp để suy nghĩ về sự hiệp nhất của Giáo hội. Hạ nguồn, Công đồng Nixêa có thể truyền cảm hứng cho nghiên cứu đại kết ngày nay, ngay cả khi nó cũng là một dấu hiệu của sự mâu thuẫn trong lịch sử giữa Đông và Tây.
Giá trị đại kết
Thật vậy, thẩm quyền của Công đồng Nixêa được công nhận trong đối thoại đại kết, ngay cả khi nó không giải quyết được tất cả các vấn đề tín lý sẽ phát sinh sau này, bao gồm cả vấn đề Filioque (và Chúa Con). Công đồng đã tìm cách kết hợp sự đa dạng và thống nhất trong các cách tiếp cận văn hóa và thần học đối với đức tin Kitô giáo. Con người của Chúa Giêsu là nền tảng, là viên đá góc của Giáo hội và của sự hiệp nhất của các Kitô hữu, những người tuyên xưng Người là Thiên Chúa thật, sinh ra bởi Thiên Chúa và là người thật.
Đâu là sự khác biệt giữa Kinh Tin Kính các Tông Đồ và Kinh Tin Kính Nixêa?
Bài thứ hai của Philip Kosloski, đăng ngày 01/02/18, cập nhật ngày 23/07/25. Ông viết:
Khi tham dự Thánh lễ vào các Chúa Nhật và các ngày lễ buộc, cộng đoàn cùng nhau đọc Kinh Tuyên xưng Đức tin sau bài giảng. Kinh này còn được gọi là Kinh Tin Kính, bắt nguồn từ tiếng Latin credo, có nghĩa là "Tôi tin".
Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma giải thích mục đích của Kinh Tin Kính được đưa vào Thánh Lễ.
Mục đích của Kinh Tin Kính hay Kinh Tuyên Xưng Đức Tin là để toàn thể giáo dân hiện diện có thể đáp lại Lời Chúa được công bố trong các bài đọc được trích từ Kinh Thánh và được giải thích trong Bài Giảng, đồng thời để họ cũng có thể tôn kính và tuyên xưng các mầu nhiệm lớn của đức tin bằng cách tuyên xưng luật đức tin theo một công thức được chấp thuận để sử dụng trong phụng vụ và trước khi việc cử hành các mầu nhiệm này trong Bí tích Thánh Thể bắt đầu.
Nói cách khác, Kinh Tin Kính là một lời "Amen" dài hơn nhiều cho tất cả những gì đã được nói trong Phụng Vụ Lời Chúa và là một sự khẳng định về những gì sắp diễn ra trong Phụng Vụ Thánh Thể. Đó là một sự đồng thuận bản thân và tập thể, tuyên xưng với tất cả những người hiện diện rằng anh chị em tin vào những niềm tin nền tảng của đức tin Công Giáo.
Hai lựa chọn
Giáo hội, trong sự khôn ngoan của mình, đã chọn hai Kinh Tin Kính khác nhau có thể được đọc trong Thánh Lễ: Kinh Tin Kính các Tông Đồ và Kinh Tin Kính Nixêa. Hướng dẫn trong Sách Lễ ghi rõ: "Thay vì Kinh Tin Kính Nixêa-Constantinopoli, đặc biệt là trong Mùa Chay và Mùa Phục Sinh, có thể sử dụng Kinh Tin Kính lúc rửa tội của Giáo Hội Rôma, được gọi là Kinh Tin Kính các Tông Đồ. Việc sử dụng Kinh Tin Kính nào là tùy thuộc vào linh mục và giám mục địa phương.
Cả hai Kinh Tin Kính đều cổ xưa và có nguồn gốc từ những ngày đầu của Giáo Hội.
Kinh Tin Kính Nixêa
Kinh Tin Kính Nixêa, nói một cách chính xác, là "Kinh Tin Kính Nixêa-Constantinopoli" và được phát triển lần đầu tiên sau Công đồng Nixêa lần thứ nhất năm 325. Nó được cho là để chống lại một sai lầm thần học gọi là tà thuyết Ariô (do người đề xướng chính, một linh mục tên là Ariô) phủ nhận thiên tính của Chúa Kitô. Một Kinh Tin Kính đã được phát triển để khẳng định tín lý của Giáo Hội và được tinh chỉnh thêm tại Công đồng Constantinople lần thứ nhất năm 381. Nó được mở rộng dựa trên các Kinh Tin Kính trước đó để chính xác hơn về những gì Giáo Hội tin.
Trước Kinh Tin Kính Nixêa, đã có nhiều Kinh Tin Kính sơ khai khác, thường được gọi là symbolon trong tiếng Hy Lạp. Theo Edward Sri, một symbolon có ý nghĩa to lớn trong thế giới cổ thời.
Trong Giáo hội sơ khai, các Kitô hữu mô tả Kinh Tin Kính, bản tuyên bố tóm tắt đức tin của họ, là biểu tượng, "dấu ấn" hay "biểu tượng của đức tin". Trong thế giới cổ thời, từ tiếng Hy Lạp "biểu tượng" thường dùng để chỉ một vật như một mảnh giấy da, một con dấu hoặc một đồng xu được cắt làm đôi và trao cho hai bên. Nó đóng vai trò là phương tiện nhận biết và xác nhận mối quan hệ giữa hai bên. Khi hai nửa của biểu tượng được ghép lại, danh tính của chủ sở hữu được xác minh và mối quan hệ được xác nhận. Tương tự như vậy, Kinh Tin Kính đóng vai trò là phương tiện để nhận biết Kitô hữu. Người nào tuyên xưng Kinh Tin Kính có thể được xác định là một Kitô hữu chân chính. Hơn nữa, họ được đảm bảo rằng những gì họ tuyên xưng trong Kinh Tin Kính đã đưa họ đến sự hiệp nhất với đức tin mà các Tông đồ đã công bố ban đầu.
Kinh Tin Kính Các Tông Đồ
Kinh Tin Kính Các Tông Đồ phát triển từ truyền thống cổ xưa đó và theo truyền thuyết, chính các Tông đồ đã viết một phần của Kinh Tin Kính đó vào Lễ Ngũ Tuần. Trong khi các học giả đã tranh luận hàng thế kỷ về tính xác thực của chủ trương này, nhiều người tin rằng ít nhất, một hình thức của Kinh Tin Kính Các Tông Đồ đã được viết vào thế kỷ thứ 2 và dựa trên một phác thảo từ thời các tông đồ.
Về cơ bản, cả hai Kinh Tin Kính đều nói cùng một điều, một Kinh chính xác hơn (Công đồng Nixêa) và Kinh còn lại tóm tắt đức tin bằng ít từ ngữ hơn (Kinh Tin Kính Các Tông Đồ). Mục đích của cả hai đều giống nhau, khẳng định đức tin và công bố trước mọi người những gì chúng ta tin.
Kinh Tin Kính mà bạn nói đến, và vị thánh đã bảo vệ nó
Bài thứ ba của Daniel Esparza – đăng tải ngày 05/02/25. Ông viết:
Mỗi Chúa Nhật trong Thánh Lễ, chúng ta đứng lên và đọc Kinh Tin Kính Nixêa. Kinh này quen thuộc — có lẽ quá quen thuộc. Năm nay, có lẽ chúng ta chú ý hơn thường lệ khi Giáo Hội chuẩn bị ngay trong tháng này cho lễ kỷ niệm 1,700 năm Công đồng Nixêa, nơi đã ban hành Kinh Tin Kính cho chúng ta. (Đức Giáo Hoàng Phanxicô dự định sẽ đến Thổ Nhĩ Kỳ cùng với Đức Thượng Phụ Bartholomew để kỷ niệm ngày kỷ niệm tại địa điểm ban đầu. Có lẽ người kế nhiệm ngài sẽ thực hiện chuyến đi.)
Ngoài những ngày kỷ niệm, chúng ta đã đọc Kinh Tin Kính này mỗi Chúa Nhật trong suốt cuộc đời mình, điều đó có thể có nghĩa là chúng ta chưa chú ý đủ. Bởi vì ẩn sâu trong ngôn ngữ cổ xưa của nó là một chiến trường tư tưởng, và một trong những người bảo vệ chân lý mạnh mẽ nhất của nó là một giám mục trẻ đến từ Ai Cập: Thánh Athanasiô.
Khủng hoảng thế kỷ thứ 4
Vào thế kỷ thứ 4, Giáo hội phải đối diện với một cuộc khủng hoảng thần học. Một linh mục nổi tiếng tên là Ariô đã dạy rằng Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đã được tạo dựng — thần linh một cách nào đó, nhưng không hoàn toàn là Thiên Chúa. Giáo huấn này lan truyền nhanh chóng, đặc biệt là trong giới giám mục mong muốn duy trì hòa bình với Đế quốc La Mã. Vấn đề không có tính học thuật. Nếu Chúa Kitô không thực sự là Thiên Chúa, Người không thể kết hợp chúng ta với Thiên Chúa. Nếu Người thấp kém hơn Thiên Chúa, thì thập tự giá không thể cứu chuộc thế gian.
Anathaxiô, giám mục thành Alexandria, đã sớm nhận ra mối nguy hiểm này. Ngài khẳng định rằng Chúa Con “đồng bản thể” (homoousios) với Chúa Cha — một tuyên bố mà sau này Giáo hội đã ghi nhận trong Kinh Tin Kính Nixêa. “Người đã trở nên như chúng ta,” Thánh Anathaxiô viết trong tác phẩm Nhập Thể, “để Người có thể làm cho chúng ta nên như Người.” Đây không phải là một ẩn dụ. Để sự cứu rỗi trở nên có thật, Chúa Giêsu phải thực sự là thần linh và thực sự là con người.
Được sinh ra, chứ không phải được tạo thành
Công đồng Nixêa năm 325 - tức 1,700 năm trước, vào đúng tháng này - đã khẳng định lập trường của Thánh Anathaxiô, tuyên bố rằng Chúa Giêsu "được sinh ra, chứ không phải được tạo thành, đồng bản thể với Chúa Cha".
Những câu nói này không chỉ mang tính thi ca - chúng là những đường lối chống lại sự nhầm lẫn và thỏa hiệp. Nhưng rất lâu sau khi công đồng kết thúc, xung đột vẫn tiếp diễn. Những người theo Ariô vẫn nắm giữ quyền lực, đặc biệt là trong triều đình. Thánh Anathaxiô đã bị lưu đày năm lần. Có lúc, gần như toàn bộ hàng giám mục đã quay lưng lại với ngài. Vậy mà ngài vẫn kiên định.
Ngài không bám víu vào một ý tưởng trừu tượng - ngài đang bảo vệ chính khả thể Thiên Chúa bước vào thế gian. Sự sáng suốt và lòng dũng cảm của Thánh Anathaxiô không chỉ bảo tồn tín lý mà còn cả trí tưởng tượng thiêng liêng của Giáo hội. Nếu không có ngài, sự hiểu biết của chúng ta về Nhập thể, Chúa Ba Ngôi và Bí tích Thánh Thể có thể đã bị đe dọa.
Ngày nay, chúng ta vẫn nhắc lại chiến thắng của ngài mỗi khi tuyên xưng Kinh Tin Kính Nixêa. Những lời ấy — quen thuộc đến nỗi đôi khi chúng ta đọc lại một cách máy móc — được tôi luyện trong ngọn lửa tranh luận và lưu đày. Chúng không phải là thánh tích. Chúng là một sợi dây cứu sinh, neo giữ chúng ta vào đức tin đã được truyền lại và đấu tranh cho.
Hoàn toàn độc đáo
Sách Giáo lý đã nói rõ ràng: “Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật” (GLCG 464), và chân lý này là “biến cố độc nhất và hoàn toàn độc đáo” nằm ở trung tâm đức tin của chúng ta (SGLCG 470).
Nếu đúng như vậy, thì chúng ta mang ơn vị giám mục đã không chịu khuất phục hơn những gì chúng ta biết.
Chúa nhật tới, khi bạn nói “đồng bản thể với Chúa Cha”, hãy nhớ đến Thánh Anathaxiô. Ngài có thể không được nhắc đến tên, nhưng Ngài hiện diện ở đó — trong từng từ, từng cụm từ, từng âm tiết của một kinh Tin Kính đã tồn tại lâu hơn cả các hoàng đế.
Những điều cần biết về sự chia rẽ Chính Thống giáo-Công Giáo và hy vọng tái thống nhất
Bài thứ tư của Alicia Ambrosio, đăng tải ngày 13/09/2017 - cập nhật ngày 17/05/2024. Bà viết:
Năm 1054, Đức Giáo Hoàng Leo IX của Rôma và Thượng phụ Michael I Kiroularious (hay Cerularius) của Constantinople đã rút phép thông công lẫn nhau. Hành động chung này đã dẫn đến một số tranh chấp Đông-Tây, dẫn đến sự ly giáo Đông-Tây trong Giáo hội. Các giáo phận phía Tây vẫn hợp nhất với Rôma được gọi là Công Giáo Rôma, trong khi các giáo phận phía Đông vẫn trung thành với Constantinople tự cho mình là Chính Thống giáo. Gần 1,000 năm đã trôi qua trước khi một ủy ban chung Công Giáo-Chính thống giáo được thành lập để nghiên cứu nguyên nhân của sự chia rẽ và hướng tới khả năng tái thống nhất.
Mặc dù sự chia rẽ chính thức giữa Đông và Tây có thể được xác định là bắt đầu từ năm 1054, nhưng sự chia rẽ này thực sự đã diễn ra từ rất lâu. Qua nhiều thế kỷ, Kitô giáo Đông phương và Tây phương đã phát triển những điểm nhấn thần học và thực hành phụng vụ khác nhau, cũng như những quan niệm khác nhau về quản trị Giáo hội.
Một trong những vấn đề chính khiến Đông và Tây xa cách là quyền tối thượng của Giám mục Rôma. Các Kitô hữu Đông phương không phủ nhận rằng Tòa Rôma nắm giữ quyền tối thượng trên tất cả các Giáo hội khác, kể cả Constantinople, nhưng họ đã tranh luận về những tuyên bố pháp lý mà các giám mục Rôma ngày càng đưa ra liên quan đến quyền tối thượng này.
Một điểm nóng đặc biệt trong cuộc tranh luận có thể được thấy trong điều được gọi là Tranh cãi Filioque (và Chúa Con). Bắt đầu từ thế kỷ thứ 7, một số Kitô hữu phương Tây đã thêm cụm từ "và Chúa Con" (filioque) vào giáo huấn của Kinh Tin Kính Nixêa, tin rằng Chúa Thánh Thần phát xuất "từ Chúa Cha". Mặc dù các Giáo phụ Đông phương và Tây phương khẳng định rằng Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con, nhưng các Kitô hữu Đông phương đã phản đối việc Đức Giáo Hoàng áp dụng cụm từ “và Chúa Con” vào phụng vụ Rôma vào đầu thế kỷ 11. Họ lập luận rằng một mình Đức Giáo Hoàng không có thẩm quyền thay đổi những gì một công đồng Giáo hội - trong trường hợp này là Công đồng Nixêa - đã ban hành.
Những vấn đề khác làm gia tăng căng thẳng giữa các Kitô hữu Đông phương và Tây phương là những cách tiếp cận khác nhau đối với kỷ luật bí tích và luật độc thân của giáo sĩ.
Tuy nhiên, nếu Đức Giáo Hoàng Phanxicô có thể nói với một phái đoàn Luther năm ngoái rằng “điều đoàn kết chúng ta lớn hơn nhiều so với điều chia rẽ chúng ta”, thì chúng ta nên áp dụng lời của ngài đặc biệt cho các thành viên của Giáo hội Chính thống giáo. Chính thống giáo duy trì sự kế vị tông truyền thực sự giữa các giám mục của mình, và do đó các giám mục và linh mục của họ cử hành các bí tích một cách hợp lệ. Cũng như Công Giáo Rôma, các Kitô hữu Chính thống giáo tôn kính Đức Mẹ, họ nuôi dưỡng lòng sùng kính các thánh (đặc biệt là các vị tử đạo), và họ ăn chay và mừng lễ theo các mùa trong năm phụng vụ.
Với rất nhiều điểm chung, và với lời cầu nguyện và mong muốn của Chúa Kitô rằng con cái Người “tất cả nên một” (Ga 17:21), các mục tử Công Giáo và Chính thống giáo ngày nay đã chính đáng dấn thân vào cuộc đối thoại mang tính xây dựng, với mục tiêu trở về sự hiệp nhất.
Những nỗ lực hiện đại
Hành trình hướng tới sự thống nhất chính thức bắt đầu vào năm 1964 khi Đức Giáo Hoàng Phaolô VI và Đức Thượng phụ Đại kết Athenagoras I của Constantinople gặp nhau lần đầu tiên tại Jerusalem. Năm sau, các vị đã ký một tuyên bố chung bãi bỏ án vạ tuyệt thông mà những người tiền nhiệm đã trao cho nhau 900 năm trước. Kể từ đó, các giáo hoàng và các thượng phụ Đông phương đã trao đổi các chuyến thăm và ký kết các tuyên bố trong nhiều dịp khác nhau.
Năm 1979, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và Đức Thượng phụ Đại kết Demetrios I chính thức thành lập Ủy ban Quốc tế Chung về Đối thoại Thần học giữa Giáo Hội Công Giáo và Giáo hội Chính thống giáo. Ủy ban bao gồm đại diện từ các Tòa Thượng phụ Chính thống giáo Hy Lạp tại Alexandria, Antioch và Jerusalem, cũng như Tòa Thượng phụ Chính thống giáo Nga tại Moscow và các Tòa Thượng phụ Chính thống giáo Serbia, Romania, Bulgaria, Hy Lạp, Ba Lan, Albania, Phần Lan và Estonia. Kể từ khi thành lập, Ủy ban đã tổ chức 16 phiên họp toàn thể, đưa ra bảy tài liệu có tầm quan trọng đại kết.
Một trong số đó, được ban hành vào năm 2016 sau khi Ủy ban họp tại Chieti, Ý, nghiên cứu vai trò của các giám mục, và đặc biệt là Giám mục Rôma, trong thiên niên kỷ đầu tiên, trước khi xảy ra Đại Ly giáo. Bằng cách ghi nhớ quá khứ chung của Đông và Tây, Ủy ban hy vọng sẽ tạo ra sự hiểu biết chung về hoàn cảnh hiện tại. Với tài liệu năm 2016, một giai đoạn quan trọng trong công việc của Ủy ban chung đã kết thúc.
Trong bài phát biểu trước Đức Thượng phụ Đại kết Bartholomew I của Constantinople nhân Lễ Thánh Anrê năm đó, Đức Giáo Hoàng Phanxicô lưu ý rằng hành trình này sẽ tiếp tục, được hỗ trợ nhiều hơn từ thiên đàng hơn là những nỗ lực trên trái đất.
Ngài nói: "Trong hành trình hướng tới việc khôi phục sự hiệp thông Thánh Thể giữa chúng ta, chúng ta được nâng đỡ không những bởi sự chuyển cầu của các vị thánh bổn mạng mà còn bởi hàng loạt các vị tử đạo từ mọi thời đại, những vị 'bất chấp bi kịch chia rẽ của chúng ta... đã giữ vững sự gắn bó với Chúa Kitô và Chúa Cha một cách triệt để và tuyệt đối đến mức có thể dẫn đến đổ máu' (Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Ut unum sint, 83)."
Còn nữa