CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN NĂM C : LC 12,13-21
13Khi ấy, có người trong đám đông nói với Đức Giê-su rằng : “Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi.” 14Người đáp : “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?” 15Và Người nói với họ : “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.”
16Sau đó Người nói với họ dụ ngôn này : “Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, 17mới nghĩ bụng rằng : “Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa màu !” 18Rồi ông ta tự bảo : ‘Mình sẽ làm thế này : phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. 19Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng : hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi cho đã !’ 20Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta : ‘Đồ ngốc ! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm đó sẽ về tay ai?’ 21Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.”
PHÂN CHIA VÀ SỬ DỤNG CỦA CẢI
Attila (395-453) là một trong những thủ lãnh quân sự và chính trị nổi tiếng nhất của người Hung-nô, một dân tộc man di hùng mạnh. Ông đã lãnh đạo dân mình chinh phục nhiều vùng đất châu Âu (đế quốc Đông Rô-ma và Tây Rô-ma), gây ra nhiều cuộc tàn phá và cướp bóc tệ hại. Do sự kinh hoàng ông gây ra, Attila được nhiều sử gia gọi là "Ngọn roi của Thiên Chúa." Tuy nhiên ông cũng nhiều phen nể phục các nhà tu hành đạo Ki-tô. Lịch sử ghi lại rằng Đức Giáo Hoàng Lê-ô Cả đã ngăn chặn được ông ta trong hành trình chinh phục nước Ý. Năm 452, ngài đàm phán ở Mantova với thủ lĩnh man di và thuyết phục ông dừng cuộc xâm lược của mình.
Ngày kia, nghe thuộc cấp báo cáo có một đan sĩ ở tại vùng ông đang trú đóng, Attila muốn đến gặp mặt. Người của Thiên Chúa không hề sợ hãi khi phải đối diện với nhà chinh phục kinh hoàng này. Khoái chí sau khi trò chuyện với đan sĩ, Attila nói : “Ta sẽ cho ông tất cả những gì ông có thể ước muốn trong vương quốc của ta.” Nhà tu hành bèn chìa tay ra về phía kẻ chinh phuc: “Thưa ngài, trong toàn vương quốc của ngài, tôi chỉ ước muốn một điều : phần rỗi của linh hồn ngài thôi !”
Nhắc khéo cho Attila nhớ cái gì là giá trị đích thực và đâu là ý nghĩa cuộc đời, câu chuyện vị đan sĩ xem ra là một dẫn nhập cho bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay.
1- Phân chia của cải : trách nhiệm của luật pháp chính đáng.
Một người xin Đức Giê-su can thiệp trong một vấn đề thừa kế. Anh ta gõ nhầm cửa, vì Đức Giê-su không phải là một rab-bi như các rab-bi khác, vốn có vai trò chính yếu là phụ trách các vấn đề pháp luật. Phận sự của Đức Giê-su là loan báo Tin Mừng Nước Trời và kêu gọi hoán cải, thành thử là đi đến gốc rễ của mối tranh chấp giữa hai anh em (x. 13-15); vì thế mới có chuyện từ khước vai trò mà kẻ vô danh chờ Người đóng, rồi có việc Người ngỏ với đám đông. Vượt trên cả một lời nhắc nhở của Lề luật (“Ngươi không được ham muốn nhà người ta… hay bất cứ vật gì của người ta”, Xh 20,17), đây là một cảnh báo chống lại ham muốn vô hạn được sở hữu thêm mãi, hay thậm chí chiếm hữu nhiều hơn cái mình cần. Một ngạn ngữ khôn ngoan lý giải việc này : của cải vật chất đâu cung cấp một sự an toàn đích thực; cuộc sống đâu được bảo đảm nhờ sự dư giả (x. 9,25). Và người ta sẽ hiểu rằng việc Đức Giê-su từ chối đứng làm quan tòa hay giải quyết một vụ phân chia tài sản chẳng hề có nghĩa là Người bảo lãnh cho một bất công trên thực tế.
Từ chối phân xử một cuộc tranh chấp quyền lợi giữa hai anh em, không chịu đi vào trong vấn đề thừa kế như thế là Đức Giê-su muốn nói : các chuyện trần gian ấy, các chuyện tiền bạc ấy chẳng phải là vai trò chính yếu của Ta, sứ mệnh căn bản của Ta. Thật thế, xin Tin Mừng một thứ thánh thiêng hóa, một kiểu bảo đảm cho những lựa chọn phàm tục của mình, đấy là cám dỗ thường xuyên đối với nhân loại. Đức Giê-su trả con người về lại các trách nhiệm của nó : chính anh em hãy tự tìm ra giải pháp cho việc thừa kế trong gia đình gia tộc, việc phân chia giữa kẻ giàu với người nghèo, giữa các nước đã kỹ nghệ hóa và các nước chậm phát triển… Chẳng có giải pháp đơn giản. Hãy kiếm tìm ! Hãy suy nghĩ ! Hãy đưa ra những kế hoạch tái phân phối. Dựa trên xác tín : mọi của cải Thiên Chúa dựng nên trên trái đất đều dành cho hết mọi con người, học thuyết xã hội Công Giáo vẫn không chủ trương một sự phân chia tài sản bình đẳng một cách máy móc, mà thay vào đó, đưa ra các nguyên tắc để hướng tới một trật tự xã hội công bằng hơn, dựa trên công ích và phẩm giá con người.
Ngoài ra, Tin Mừng của Đức Giê-su đề nghị một thái độ chẳng được tiên liệu/dự kiến nhiều trong các học thuyết kinh tế cũng như trong bậc thang các giá trị của xã hội tiêu thụ hiện thời. Đức Giê-su cảnh báo chúng ta chớ xây dựng hạnh phúc mình trước hết trên việc tiêu thụ và sự thoải mái vật chất… hãy từ chối sự thèm muốn vô độ… để sống tự do. “Không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.” Tự do đối với sở hữu như thế chính là tinh thần nghèo khó, là thái độ thanh thản tin tưởng, đối nghịch với thói kiêu căng đòi hỏi, ám ảnh lo lắng “sao cho có nhiều hơn nữa” mà ta có thể gặp thấy nơi nhiều người giàu về mặt kinh tế cũng như nơi lắm kẻ về mặt kinh tế thì nghèo nhưng hoàn toàn bị những ham muốn ám ảnh. Thái độ quân bình trước của cải chứa đựng trong lời cầu nguyện đáng ca ngợi của sách Châm ngôn (30,8) : “Xin đừng để con túng nghèo, cũng đừng cho con giàu có; chỉ xin cho con cơm bánh cần dùng !” Đó chính xác là ý nghĩa của từ “hôm nay” trong kinh Lạy Cha : “Xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày.” Chẳng lý thuyết trừu tượng, Đức Giê-su gợi lên một cuộc cách mạng thế giới đích thực : chớ tha hóa mình qua việc phụng sự thần giả là tiền bạc, một thần tượng tàn nhẫn chuyên phá hoại, bằng cách phi nhân hóa những ai tự sát qua việc luôn kiếm cho được nhiều hơn. Phúc thay những kẻ khó nghèo !
2. Sử dụng của cải : ý thức của con người khôn ngoan.
Dụ ngôn người giàu ngu dại tiếp đó minh họa cho điều nói trên. Là chủ đất, ông ta quyết định tiến hành nhiều cuộc mở rộng kho lẫm vì một vụ mùa bội thu, và như thế dự trữ cho mình cái mà ông sẽ có thể dựa trên đó để nghỉ ngơi nhiều năm thoải mái an toàn. Nhân tiện, ông sẽ phá hủy nhiều vựa thóc coi như quá nhỏ, nhưng còn có thể hữu ích cho những người khác… Hoàn toàn hướng về việc thực hiện ích kỷ vốn chỉ dựa trên cuộc sống hiện tại, nhân vật của chúng ta chẳng để ý đến cái chết, cái chết của mình, trong việc giải quyết vấn đề của bản thân. Ở đây ông tỏ ra ngu ngốc dại dột, vì Thiên Chúa, Chủ tể sự sống, sẽ lấy mạng của ông ngay trong cùng đêm; con người này đã thiếu sự thông minh khi không bảo đảm cho mình một hạnh phúc bền vững. Ở câu 21, lời áp dụng cảnh báo chống lại một thái độ ích kỷ như thế (thu tích của cải cho mình). Trong thực tế, câu “phải làm giàu trước mặt Thiên Chúa” còn hơi khó hiểu, bài học này sẽ được soi sáng đầy đủ nhờ câu kết luận của tất cả lời triển khai cho các môn đệ nơi cc. 33-34.
“Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.” Đấy là bí quyết của sự tự do lớn lao trước của cải trần đời. Giàu có đích thực, hạnh phúc đích thực không phải là giàu có “cho mình” nhưng “cho Chúa” như Đức Giê-su dạy. Điều này không gợi ra cho chúng ta một giải pháp làm sẵn. Nhưng nó mở lòng chúng ta đón nhận một hạnh phúc bất diệt ngày nào, như quá rõ, chúng ta buộc phải mất những gì “trong vựa thóc kho lúa” hay “trong trương mục ngân hàng.” Két sắt không đi theo quan tài ! Chính Thiên Chúa là giá trị duy nhất vững bền, vĩnh cửu. Mọi cái còn lại đều phù du, nhất thời. Và Đức Giê-su, trên chủ đề này, lấy lại các từ ngữ hàng nghìn lần được lặp lại trong Kinh Thánh : ngu dại (nabal trong tiếng Hip-ri) là kẻ giản lược/thu gọn chân trời của mình vào trần gian… khôn ngoan (maskil trong tiếng Hip-ri) là kẻ lấy Thiên Chúa làm đủ cho mình, làm sự giàu có cho mình ! Attila dù chinh phục được cả châu Âu, có trong tay mọi quyền lực, của cải, lạc thú, nhưng không lo đến phần rỗi của linh hồn như lời vị đan sĩ dũng cảm gợi ý, thì trước mắt Thiên Chúa và trước mắt đức tin cũng chỉ là một kẻ ngu dại.
Thành thử đừng xuyên tạc tư tưởng của Đức Giê-su. Của cải tự bản chất không xấu. Két sắt của bạn đầy càng tốt. Vấn đề duy nhất là biết bạn làm nó trống dần “cho ai” ! Phải chăng bạn đem tài sản của mình ra phục vụ? Phải chăng bận tâm chính yếu của bạn là tình yêu? Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa là quà tặng. Tài sản của tôi dùng làm gì? đem cho ai vậy? Tôi có dám bình thản, sáng suốt suy nghĩ về ngân sách cá nhân, về việc sử dụng tiền bạc của mình chăng?
13Khi ấy, có người trong đám đông nói với Đức Giê-su rằng : “Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi.” 14Người đáp : “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?” 15Và Người nói với họ : “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.”
16Sau đó Người nói với họ dụ ngôn này : “Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, 17mới nghĩ bụng rằng : “Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa màu !” 18Rồi ông ta tự bảo : ‘Mình sẽ làm thế này : phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. 19Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng : hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi cho đã !’ 20Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta : ‘Đồ ngốc ! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm đó sẽ về tay ai?’ 21Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.”
PHÂN CHIA VÀ SỬ DỤNG CỦA CẢI
Attila (395-453) là một trong những thủ lãnh quân sự và chính trị nổi tiếng nhất của người Hung-nô, một dân tộc man di hùng mạnh. Ông đã lãnh đạo dân mình chinh phục nhiều vùng đất châu Âu (đế quốc Đông Rô-ma và Tây Rô-ma), gây ra nhiều cuộc tàn phá và cướp bóc tệ hại. Do sự kinh hoàng ông gây ra, Attila được nhiều sử gia gọi là "Ngọn roi của Thiên Chúa." Tuy nhiên ông cũng nhiều phen nể phục các nhà tu hành đạo Ki-tô. Lịch sử ghi lại rằng Đức Giáo Hoàng Lê-ô Cả đã ngăn chặn được ông ta trong hành trình chinh phục nước Ý. Năm 452, ngài đàm phán ở Mantova với thủ lĩnh man di và thuyết phục ông dừng cuộc xâm lược của mình.
Ngày kia, nghe thuộc cấp báo cáo có một đan sĩ ở tại vùng ông đang trú đóng, Attila muốn đến gặp mặt. Người của Thiên Chúa không hề sợ hãi khi phải đối diện với nhà chinh phục kinh hoàng này. Khoái chí sau khi trò chuyện với đan sĩ, Attila nói : “Ta sẽ cho ông tất cả những gì ông có thể ước muốn trong vương quốc của ta.” Nhà tu hành bèn chìa tay ra về phía kẻ chinh phuc: “Thưa ngài, trong toàn vương quốc của ngài, tôi chỉ ước muốn một điều : phần rỗi của linh hồn ngài thôi !”
Nhắc khéo cho Attila nhớ cái gì là giá trị đích thực và đâu là ý nghĩa cuộc đời, câu chuyện vị đan sĩ xem ra là một dẫn nhập cho bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay.
1- Phân chia của cải : trách nhiệm của luật pháp chính đáng.
Một người xin Đức Giê-su can thiệp trong một vấn đề thừa kế. Anh ta gõ nhầm cửa, vì Đức Giê-su không phải là một rab-bi như các rab-bi khác, vốn có vai trò chính yếu là phụ trách các vấn đề pháp luật. Phận sự của Đức Giê-su là loan báo Tin Mừng Nước Trời và kêu gọi hoán cải, thành thử là đi đến gốc rễ của mối tranh chấp giữa hai anh em (x. 13-15); vì thế mới có chuyện từ khước vai trò mà kẻ vô danh chờ Người đóng, rồi có việc Người ngỏ với đám đông. Vượt trên cả một lời nhắc nhở của Lề luật (“Ngươi không được ham muốn nhà người ta… hay bất cứ vật gì của người ta”, Xh 20,17), đây là một cảnh báo chống lại ham muốn vô hạn được sở hữu thêm mãi, hay thậm chí chiếm hữu nhiều hơn cái mình cần. Một ngạn ngữ khôn ngoan lý giải việc này : của cải vật chất đâu cung cấp một sự an toàn đích thực; cuộc sống đâu được bảo đảm nhờ sự dư giả (x. 9,25). Và người ta sẽ hiểu rằng việc Đức Giê-su từ chối đứng làm quan tòa hay giải quyết một vụ phân chia tài sản chẳng hề có nghĩa là Người bảo lãnh cho một bất công trên thực tế.
Từ chối phân xử một cuộc tranh chấp quyền lợi giữa hai anh em, không chịu đi vào trong vấn đề thừa kế như thế là Đức Giê-su muốn nói : các chuyện trần gian ấy, các chuyện tiền bạc ấy chẳng phải là vai trò chính yếu của Ta, sứ mệnh căn bản của Ta. Thật thế, xin Tin Mừng một thứ thánh thiêng hóa, một kiểu bảo đảm cho những lựa chọn phàm tục của mình, đấy là cám dỗ thường xuyên đối với nhân loại. Đức Giê-su trả con người về lại các trách nhiệm của nó : chính anh em hãy tự tìm ra giải pháp cho việc thừa kế trong gia đình gia tộc, việc phân chia giữa kẻ giàu với người nghèo, giữa các nước đã kỹ nghệ hóa và các nước chậm phát triển… Chẳng có giải pháp đơn giản. Hãy kiếm tìm ! Hãy suy nghĩ ! Hãy đưa ra những kế hoạch tái phân phối. Dựa trên xác tín : mọi của cải Thiên Chúa dựng nên trên trái đất đều dành cho hết mọi con người, học thuyết xã hội Công Giáo vẫn không chủ trương một sự phân chia tài sản bình đẳng một cách máy móc, mà thay vào đó, đưa ra các nguyên tắc để hướng tới một trật tự xã hội công bằng hơn, dựa trên công ích và phẩm giá con người.
Ngoài ra, Tin Mừng của Đức Giê-su đề nghị một thái độ chẳng được tiên liệu/dự kiến nhiều trong các học thuyết kinh tế cũng như trong bậc thang các giá trị của xã hội tiêu thụ hiện thời. Đức Giê-su cảnh báo chúng ta chớ xây dựng hạnh phúc mình trước hết trên việc tiêu thụ và sự thoải mái vật chất… hãy từ chối sự thèm muốn vô độ… để sống tự do. “Không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.” Tự do đối với sở hữu như thế chính là tinh thần nghèo khó, là thái độ thanh thản tin tưởng, đối nghịch với thói kiêu căng đòi hỏi, ám ảnh lo lắng “sao cho có nhiều hơn nữa” mà ta có thể gặp thấy nơi nhiều người giàu về mặt kinh tế cũng như nơi lắm kẻ về mặt kinh tế thì nghèo nhưng hoàn toàn bị những ham muốn ám ảnh. Thái độ quân bình trước của cải chứa đựng trong lời cầu nguyện đáng ca ngợi của sách Châm ngôn (30,8) : “Xin đừng để con túng nghèo, cũng đừng cho con giàu có; chỉ xin cho con cơm bánh cần dùng !” Đó chính xác là ý nghĩa của từ “hôm nay” trong kinh Lạy Cha : “Xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày.” Chẳng lý thuyết trừu tượng, Đức Giê-su gợi lên một cuộc cách mạng thế giới đích thực : chớ tha hóa mình qua việc phụng sự thần giả là tiền bạc, một thần tượng tàn nhẫn chuyên phá hoại, bằng cách phi nhân hóa những ai tự sát qua việc luôn kiếm cho được nhiều hơn. Phúc thay những kẻ khó nghèo !
2. Sử dụng của cải : ý thức của con người khôn ngoan.
Dụ ngôn người giàu ngu dại tiếp đó minh họa cho điều nói trên. Là chủ đất, ông ta quyết định tiến hành nhiều cuộc mở rộng kho lẫm vì một vụ mùa bội thu, và như thế dự trữ cho mình cái mà ông sẽ có thể dựa trên đó để nghỉ ngơi nhiều năm thoải mái an toàn. Nhân tiện, ông sẽ phá hủy nhiều vựa thóc coi như quá nhỏ, nhưng còn có thể hữu ích cho những người khác… Hoàn toàn hướng về việc thực hiện ích kỷ vốn chỉ dựa trên cuộc sống hiện tại, nhân vật của chúng ta chẳng để ý đến cái chết, cái chết của mình, trong việc giải quyết vấn đề của bản thân. Ở đây ông tỏ ra ngu ngốc dại dột, vì Thiên Chúa, Chủ tể sự sống, sẽ lấy mạng của ông ngay trong cùng đêm; con người này đã thiếu sự thông minh khi không bảo đảm cho mình một hạnh phúc bền vững. Ở câu 21, lời áp dụng cảnh báo chống lại một thái độ ích kỷ như thế (thu tích của cải cho mình). Trong thực tế, câu “phải làm giàu trước mặt Thiên Chúa” còn hơi khó hiểu, bài học này sẽ được soi sáng đầy đủ nhờ câu kết luận của tất cả lời triển khai cho các môn đệ nơi cc. 33-34.
“Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.” Đấy là bí quyết của sự tự do lớn lao trước của cải trần đời. Giàu có đích thực, hạnh phúc đích thực không phải là giàu có “cho mình” nhưng “cho Chúa” như Đức Giê-su dạy. Điều này không gợi ra cho chúng ta một giải pháp làm sẵn. Nhưng nó mở lòng chúng ta đón nhận một hạnh phúc bất diệt ngày nào, như quá rõ, chúng ta buộc phải mất những gì “trong vựa thóc kho lúa” hay “trong trương mục ngân hàng.” Két sắt không đi theo quan tài ! Chính Thiên Chúa là giá trị duy nhất vững bền, vĩnh cửu. Mọi cái còn lại đều phù du, nhất thời. Và Đức Giê-su, trên chủ đề này, lấy lại các từ ngữ hàng nghìn lần được lặp lại trong Kinh Thánh : ngu dại (nabal trong tiếng Hip-ri) là kẻ giản lược/thu gọn chân trời của mình vào trần gian… khôn ngoan (maskil trong tiếng Hip-ri) là kẻ lấy Thiên Chúa làm đủ cho mình, làm sự giàu có cho mình ! Attila dù chinh phục được cả châu Âu, có trong tay mọi quyền lực, của cải, lạc thú, nhưng không lo đến phần rỗi của linh hồn như lời vị đan sĩ dũng cảm gợi ý, thì trước mắt Thiên Chúa và trước mắt đức tin cũng chỉ là một kẻ ngu dại.
Thành thử đừng xuyên tạc tư tưởng của Đức Giê-su. Của cải tự bản chất không xấu. Két sắt của bạn đầy càng tốt. Vấn đề duy nhất là biết bạn làm nó trống dần “cho ai” ! Phải chăng bạn đem tài sản của mình ra phục vụ? Phải chăng bận tâm chính yếu của bạn là tình yêu? Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa là quà tặng. Tài sản của tôi dùng làm gì? đem cho ai vậy? Tôi có dám bình thản, sáng suốt suy nghĩ về ngân sách cá nhân, về việc sử dụng tiền bạc của mình chăng?