
Simone Baroncia thuộc ACI Stampa, đối tác tiếng Ý của hãng tin CNA, ngày 29 tháng 8 năm 2025, tường trình rằng: Đức Hồng Y Kurt Koch và Đức Bartholomew I, Thượng phụ đại kết Chính thống giáo Đông phương của Constantinople, đã phát biểu nhân dịp kỷ niệm 1,700 năm Công đồng Nixêa được cử hành vào năm 2025 trong Hội nghị Rimini được tổ chức từ ngày 22 đến 27 tháng 8.
Trong bài thuyết trình của ngài, Đức Hồng Y Koch, Tổng trưởng Bộ Cổ võ Hiệp nhất Kitô giáo, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của các vấn đề tín lý được công đồng đề cập.
Ngài lưu ý: “Với nó, các Giáo phụ đã tuyên xưng đức tin vào ‘một Thiên Chúa, là Cha toàn năng, Đấng tạo thành muôn vật hữu hình và vô hình’… Và trong thư của Thượng Hội đồng gửi người Ai Cập, các Giáo phụ tuyên bố rằng đối tượng nghiên cứu thực sự đầu tiên là sự kiện Ariô và những người theo ông ta là kẻ thù của đức tin và chống lại luật pháp, và do đó khẳng định rằng các ngài đã ‘đồng lòng quyết định lên án bằng lời nguyền rủa tín lý trái ngược với đức tin của ông ta, những lời tuyên bố và mô tả phạm thượng mà ông ta đã dùng để xúc phạm đến Con Thiên Chúa’”.
Ngài nói thêm: ‘Những tuyên bố này “đã phác họa bối cảnh của kinh Tin Kính do công đồng lập ra, trong đó tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, ‘đồng bản thể với Chúa Cha.’ Bối cảnh lịch sử là bối cảnh của một cuộc tranh luận dữ dội nổ ra trong Kitô giáo vào thời điểm đó, đặc biệt là ở phía đông của Đế quốc La Mã; do đó, vào đầu thế kỷ thứ tư, vấn đề Kitô học đã trở thành vấn đề cốt lõi của thuyết độc thần Kitô giáo.”
Đức Hồng Y Koch cho biết Công đồng Nixêa đã đặt lời cầu nguyện của Chúa Giêsu lên Chúa Cha vào trung tâm của lời tuyên xưng, và nói thêm: “Kinh Tin Kính Kitô học của Công đồng đã trở thành nền tảng của đức tin Kitô giáo nói chung. Công đồng có tầm quan trọng to lớn, đặc biệt là vì nó diễn ra vào thời điểm Kitô giáo chưa bị chia rẽ bởi vô số chia rẽ sau này. Kinh Tin Kính Nixêa không chỉ phổ biến đối với các Giáo hội Đông phương, các Giáo hội Chính thống giáo và Giáo Hội Công Giáo, mà còn phổ biến đối với các cộng đồng giáo hội được khai sinh từ Phong trào Cải cách; do đó, không được đánh giá thấp tầm quan trọng đại kết của nó.”
Chỉ bằng cách này, sự hiệp nhất trong Giáo hội mới có thể thực hiện được, ngài nói tiếp: “Thực ra, để khôi phục sự hiệp nhất của Giáo hội, cần phải có sự đồng thuận về những nội dung cốt lõi của đức tin, không chỉ giữa các Giáo hội và cộng đồng giáo hội ngày nay mà còn với Giáo hội trong quá khứ, và đặc biệt là với nguồn gốc tông truyền của nó. Sự hiệp nhất của Giáo hội được đặt nền tảng trên đức tin tông truyền, đức tin này được truyền lại và trao phó cho mỗi thành viên mới của Thân thể Chúa Kitô trong phép Rửa tội.”
Ngài tiếp tục: “Vì sự hiệp nhất chỉ có thể được tìm thấy trong đức tin chung, nên lời tuyên xưng Kitô học của Công đồng Nixêa được mặc khải là nền tảng của đại kết thiêng liêng.”
Đức Hồng Y lưu ý: “Phong trào đại kết đã là một phong trào cầu nguyện ngay từ nguồn gốc của nó. Chính lời cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô giáo đã mở đường cho nó. Trọng tâm của lời cầu nguyện nhấn mạnh rằng cam kết đại kết, trên hết, là một nhiệm vụ thiêng liêng, được thực hiện với niềm tin rằng Chúa Thánh Thần sẽ hoàn thành công việc Người đã khởi sự và chỉ đường cho chúng ta.”
Đức Hồng Y Koch nói: Đại kết chỉ có thể tiến triển “nếu các Kitô hữu cùng nhau trở về với nguồn mạch đức tin, vốn chỉ tìm thấy nơi Chúa Giêsu Kitô, như các Nghị phụ Công đồng Nixêa đã tuyên xưng... Đại kết Kitô giáo không thể là gì khác ngoài việc tất cả các Kitô hữu tuân theo lời cầu nguyện tư tế của Chúa, và nó sẽ thành hiện thực khi các Kitô hữu ấp ủ sâu sắc mong muốn hiệp nhất”.
Tầm quan trọng của Công đồng Nixêa cũng được Đức Thượng phụ Bartholomew nhấn mạnh: “Rõ ràng là Công đồng này đã và đang đóng vai trò chủ chốt trong việc tuân thủ nghiêm ngặt Kinh Thánh, và Giáo hội Chính thống giáo vẫn bám chặt vào đó; một nền tảng cho việc công bố Tin Mừng trong 17 thế kỷ tiếp theo.”
Đức Thượng phụ Constantinople đã đề cập đến các vấn đề hiện tại như tính đồng nghị và một ngày chung để cử hành Lễ Phục sinh.
Ngài lưu ý: “Để được tín nhiệm như những người Kitô hữu, chúng ta phải cử hành sự phục sinh của Đấng Cứu Thế vào cùng một ngày. Cùng với Đức Giáo Hoàng Phanxicô, chúng tôi đã bổ nhiệm một ủy ban để nghiên cứu vấn đề này. Tuy nhiên, có những nhạy cảm khác nhau giữa các Giáo hội, và chúng ta phải tránh những chia rẽ mới, chứ không phải khơi dậy thêm chia rẽ.”
Vị lãnh đạo Chính thống giáo cho biết điều này đòi hỏi một nỗ lực chung: “Nỗ lực tìm ra một ngày chung cho Lễ Phục sinh là một mục tiêu mục vụ quan trọng, đặc biệt là đối với các cặp vợ chồng và gia đình thuộc các tín phái khác nhau, và xét đến sự di chuyển rất lớn của mọi người, đặc biệt là trong những ngày lễ.”
Đức Bartholomew nói tiếp “Với một ngày lễ Phục sinh chung, niềm xác tín sâu sắc của đức tin Kitô giáo có thể được diễn đạt một cách đáng tin cậy hơn nữa: rằng Lễ Phục sinh không chỉ là ngày lễ lâu đời nhất mà còn là ngày lễ quan trọng nhất của Kitô giáo, và Đức tin Kitô giáo đứng vững hay sụp đổ tùy thuộc vào Mầu nhiệm Vượt Qua, như Giáo hội sơ khai đã tóm tắt niềm xác tín nền tảng này bằng câu nói:
“Tước bỏ sự Phục sinh, tức khắc các ngươi sẽ hủy diệt Kitô giáo”. Tầm quan trọng nền tảng của Lễ Phục sinh sẽ được nhấn mạnh bằng một ngày lễ chung, điều này cũng sẽ tạo động lực mới cho hành trình đại kết hướng tới việc khôi phục sự hiệp nhất của Giáo hội Đông và Tây trong đức tin và tình yêu.”
Đức Thượng phụ Bartholomew phát biểu: “Thật vậy, phong trào đại kết cũng chỉ tiến triển trên con đường tái lập sự hiệp nhất của Giáo hội khi được thực hiện chung và do đó, theo tinh thần đồng nghị. Tầm quan trọng cơ bản của tính đồng nghị đối với cam kết đại kết được chứng tỏ rõ ràng qua hai tài liệu quan trọng, chẳng hạn như nghiên cứu “Giáo hội hướng tới một tầm nhìn chung”, hướng đến một tầm nhìn đa phương và đại kết về bản chất, mục đích và sứ mệnh của Giáo hội”.
Đức Thượng phụ Bartholomew kết luận bằng cách khẳng định tầm quan trọng của nghiên cứu chung: “Tầm nhìn này cũng được Ủy ban Thần học Quốc tế chia sẻ trong tài liệu lên chương trình “Tính đồng nghị trong Đời sống và Sứ mệnh của Giáo hội”, trong đó lưu ý rằng đối thoại đại kết đã tiến triển đến mức công nhận tính đồng nghị là một “chiều kích mặc khải về bản chất của Giáo hội”.
Đức Thượng phụ Chính thống giáo kết luận: “Tổng quan có tính lịch sử này giúp chúng ta hiểu rằng sự phát triển của tính đồng nghị trong đời sống Giáo hội và của phong trào đại kết phải được thực hiện với sự chính xác về mặt thần học và sự thận trọng mục vụ. Bài học này cũng có thể được rút ra bằng cách nghiên cứu Công đồng Nixêa”.