2.1.4. “CHỨC NĂNG PHÊ-RÔ”

43. Xét đến khó khăn trong việc tìm ra nền tảng trực tiếp cho thừa tác vụ của Giám mục Rôma trong Tân Ước, cuộc đối thoại Lutheran–Công Giáo tại Hoa Kỳ đã đưa ra một khái niệm chung về “chức năng Phê-rô” [Petrine Function], không nhất thiết phải gắn liền với một tòa hoặc một cá nhân đặc thù nào. Nó được định nghĩa là “một hình thức đặc thù của Thừa tác vụ do một cá nhân, người giữ thừa tác vụ hoặc giáo hội địa phương thực hiện với sự tham chiếu đến toàn thể giáo hội. Chức năng Phê-rô trong thừa tác vụ này phục vụ cho việc thúc đẩy hoặc duy trì sự hiệp nhất của giáo hội bằng cách tượng trưng cho sự hiệp nhất, và bằng cách tạo điều kiện cho sự thông đạt, hỗ trợ hoặc sửa chữa lẫn nhau, và sự hợp tác trong sứ mệnh của giáo hội” (L–C US 1973, 4). Đối với các hình ảnh liên quan đến Phê-rô trong Tân Ước, cuộc đối thoại này cũng nêu rằng: “Khi ‘quỹ đạo’ của những hình ảnh này được theo dõi, chúng ta thấy dấu hiệu của sự phát triển từ những hình ảnh trước đó đến những hình ảnh sau đó. Sự phát triển của các hình ảnh này không cấu thành tính tối thượng theo nghĩa kỹ thuật sau này, nhưng người ta có thể thấy khả thể định hướng theo hướng đó, khi được định hình bởi các yếu tố thuận lợi trong giáo hội tiếp theo” (L–CUS 1973, 13).

2.1.5. “CÁC BẢN VĂN PHÊ-RÔ” TRONG TRUYỀN THỐNG GIÁO PHỤ

44. Một số cuộc đối thoại thần học đã chứng minh rằng tính tối thượng của Giám mục Rôma “không thể được thiết lập từ Kinh thánh khi tách biệt khỏi truyền thống sống động”, vốn đã công nhận Tòa Rôma có một vị trí và vai trò đặc biệt (xem MERCIC 1986, 55). Đối thoại Lutheran–Công Giáo Rôma tại Hoa Kỳ nhấn mạnh rằng vị trí và vai trò này phụ thuộc vào sự hội tụ của “hai đường song song”: “Trong giai đoạn sau thời Tân Ước, hai dòng phát triển có xu hướng nâng cao vai trò của giám mục Rôma trong số các giáo hội thời bấy giờ. Một là sự phát triển liên tục của một số hình ảnh về Phê-rô xuất hiện từ các cộng đồng tông đồ, dòng còn lại là kết quả từ tầm quan trọng của Rôma như một trung tâm chính trị, văn hóa và tôn giáo” (L–C US 1973, 15). Là thủ đô của Đế quốc, tầm quan trọng chiến lược của Rôma đối với sứ mệnh hoàn cầu của Kitô giáo đã được công nhận ngay từ thời Tân Ước (so sánh Công vụ 19:21; 25:25). Do đó, cộng đồng Kitô giáo ở Rôma nhanh chóng trở nên quan trọng, bằng chứng là Thánh Phao-lô đã tìm kiếm sự hỗ trợ của Giáo hội Rôma trong việc rao giảng Tin mừng của mình (xem MERCIC 1986, 52). Sự nổi bật của Rôma như nơi Phê-rô và Phao-lô có ngôi mộ của họ, đã thiết lập nên giáo phận Rôma như một Giáo hội tông truyền có tầm quan trọng độc nhất. Như ARCIC nêu rõ: “Giáo hội tại Rôma, thành phố mà Phê-rô và Phao-lô đã giảng dạy và chịu tử đạo, được công nhận là có trách nhiệm độc nhất trong số các giáo hội: giám mục của giáo hội được coi thực hiện một việc phục vụ đặc biệt liên quan đến sự hiệp nhất của các giáo hội, và liên quan đến lòng trung thành với di sản tông truyền, do đó, thực hiện giữa các giám mục đồng nghiệp của mình các chức năng tương tự như những chức năng được gán cho Phê-rô, người mà giám mục Rôma được coi là kế nhiệm” (ARCIC 1981, 6).

45. Trong Giáo hội Latinh, sự tử đạo và việc chôn cất Phê-rô tại Rôma là cơ sở để áp dụng “các bản văn Phê-rô” cho Giám mục Rôma từ đầu thế kỷ thứ ba (xem Tertullian, De Pudicitia 21, Præscriptionibus adversus Hæreticos 22.4). Theo Nhóm des Dombes: “Việc tham chiếu đến các bản văn kinh thánh làm nổi bật vai trò của Phê-rô xuất hiện trong Giáo hội sơ khai như một hiện tượng thứ cấp so với một thông lệ chính” (Dombes 1985, 22). Với Leo I (440–461), mối tương quan giữa giám mục của giáo hội Rôma và hình ảnh của Phê-rô, vốn đã được một số người tiền nhiệm của ngài ngụ ý, đã trở nên hoàn toàn rõ ràng. Theo Đức Leo, Phê-rô tiếp tục nhiệm vụ tuyên bố đức tin thông qua Giám mục của Rôma, và sự thống trị của Rôma trên các giáo hội khác bắt nguồn từ sự hiện diện của Phê-rô trong những người kế vị ngài, các giám mục của Tòa Rôma (xem Leo, Thư 98).

Một số người thấy niềm tin này được các giám mục tại Công đồng Chalcedon ủng hộ khi họ chấp thuận Tập văn kiện [Tome] gửi Flavian của Đức Leo: “Đây là đức tin của các giáo phụ; đây là đức tin của các tông đồ; đây là đức tin của tất cả chúng ta; Phê-rô đã nói qua Leo” (trích dẫn trong MERCIC 1986, 53). Những người khác nhận xét rằng Tập văn kiện của Đức Leo đã được chấp nhận vì nó được coi là phù hợp với giáo huấn của Cyril thành Alexandria, tức là với truyền thống tông đồ và giáo phụ: “Công đồng cũng đã cẩn thận nhấn mạnh sự nhất trí của Đức Leo với Thánh Cyril: ‘Đức Leo đã dạy một cách đạo đức và chân thành, Thánh Cyril cũng đã dạy như vậy’” (Thánh Irenaeus 2018, 7.6).

Tuy nhiên, từ thời điểm này, yếu tố quyết định đối với Giáo Hội Công Giáo trong việc hiểu vị trí và vai trò đặc biệt của Tòa Rôma là mối quan hệ của Giám mục Rôma với Phê-rô: “Giáo hội học ‘Phêrô-Rôma’ của Đức Leo sẽ đóng vai trò quyết định trong định hướng tiếp theo của học thuyết ‘Công Giáo’” (Dombes 1985, 26).

Cuộc đối thoại quốc tế Chính thống giáo–Công Giáo mô tả sự phát triển thần học này: “Ở phương Tây, quyền tối thượng của tòa Rôma đã được hiểu, đặc biệt là từ thế kỷ thứ tư trở đi, liên quan đến vai trò của Phê-rô trong số các Tông đồ.

Quyền tối thượng của giám mục Rôma trong số các giám mục đã dần dần được diễn giải như một đặc quyền của ngài vì ngài là người kế vị của Phê-rô, vị tông đồ đầu tiên. Sự hiểu biết này không được áp dụng ở phương Đông, nơi có cách giải thích khác về Kinh thánh và các Giáo phụ về điểm này” (O–C 2016, 16).

Cuộc đối thoại Luther–Công Giáo Đức đã tóm tắt một cách ngắn gọn sự phát triển của phương Tây: “Thay vì nguyên tắc địa phương (sedes apostolica), nguyên tắc thể nhân xuất hiện (người kế nhiệm Phê-rô)” (L–C Germ 2000, 168).

46. Thật vậy, trong khi công nhận vị trí đầu tiên của Rôma trong taxis [hàng ngũ], Chính thống giáo thường dành ít tầm quan trọng về tín lý cho việc kết nối nó với Phêrô. Quan điểm này được phản ảnh trong tuyên bố của cuộc đối thoại Chính thống giáo–Công Giáo Bắc Mỹ: “Rôma được khẳng định là tòa đầu tiên mà không tham chiếu đến truyền thống Phêrô” (O–CUS 2017). Chính thống giáo thường nhấn mạnh cơ sở chính trị của quyền tối thượng của Rôma, lập luận từ điều 28 của Công đồng Chalcedon, công nhận rằng “các giáo phụ [...] đã đúng khi dành đặc quyền [presbeia] cho tòa giám mục của Rôma cũ vì đó là một thành phố đế quốc” (xem O–C 2016, chú thích 11). Thật vậy, sự phản bác của một số người trong số họ không phải là về quyền tối thượng của Giám mục Rôma hay quyền tối thượng của Phêrô trong Tân Ước, mà là sự hợp nhất của cả hai trong tín lý Công Giáo.

47. Cần đặc biệt đề cập đến cách đọc “bản văn Phêrô” trong truyền thống Syria, theo nhiều cách phù hợp với cách hiểu của tiếng Latinh, vì Thánh Phêrô đã thành lập các Giáo hội ở cả An-ti-ô-ki-a và Rôma, và do đó các giám mục của cả hai giáo hội đều được coi là những người kế vị ngài. Trong Tuyên bố chung về Chức Giám mục và Thừa tác vụ Phêrô (2002), ủy ban đối thoại giữa Giáo Hội Công Giáo và Giáo hội Chính thống giáo Syria Malankara đã tuyên bố, “Theo Kinh thánh và Truyền thống, Chúa Giêsu đã giao phó cho Thánh Phêrô một thừa tác vụ đặc biệt. Đặt cho ngài cái tên Kepha (Đá), Chúa Giêsu đã đặt ngài làm người đứng đầu, người đại diện và người phát ngôn của mười hai tông đồ. Thánh Phêrô và những người kế vị ngài được ban cho thừa tác vụ hiệp nhất ở bình diện hoàn cầu. Trong Giáo Hội Công Giáo, thừa tác vụ này do Giám mục Rôma thực hiện và trong Giáo hội Chính thống giáo Syria do Thượng phụ An-ti-ô-ki-a thực hiện. Theo Giáo hội Chính thống giáo Syria, Thượng phụ An-ti-ô-ki-a, với tư cách là người kế vị Phê-rô, là biểu tượng hữu hình của sự thống nhất và đại diện cho Giáo hội Chính thống giáo Syria hoàn cầu” (4).

2.2. DE IURE DIVINO

48. Vatican I dạy rằng quyền tối thượng của Giám mục Rôma được thiết lập de iure divino (bởi thần quyền) và do đó thuộc về cấu trúc yếu tính và không thể hủy bỏ của Giáo hội (“ex ipsius Christi Domini institutione seu iure divino”, Pastor æternus II). Các Giáo hội khác theo truyền thống đã phản đối hoặc bác bỏ việc thiết lập de iure divino này. Các Giáo hội Đông phương, trong khi công nhận quyền tối thượng về danh dự thuộc về Giám mục Rôma, đã coi quyền tối thượng này là vấn đề phát triển lịch sử. Ví dụ, khi đề cập đến nhà thần học thế kỷ 14 Nilus Cabasilas, Tòa Thượng phụ Moscow đã tuyên bố vào năm 2013: “Quyền tối thượng về danh dự dành cho các giám mục Rôma không phải do Chúa mà do con người thiết lập” (Lập trường của Tòa Thượng phụ Moscow về vấn đề quyền tối thượng trong Giáo hội Hoàn vũ, 4).

Tương tự như vậy, những nhà thần học Thệ phản không hoàn toàn bác bỏ quyền tối thượng của giáo hoàng nhưng vẫn coi định chế này đơn giản như ‘de iure humano’ (theo quyền con người) vì nó không bắt nguồn từ kinh thánh.

Ví dụ, Philip Melanchthon lập luận rằng, nếu giáo hoàng “cho phép tin mừng”, thì “quyền tối thượng của giáo hoàng so với các giám mục” có thể được trao ban de iure humano (xem L–CUS 2004, 74; L–C Aus 2016, 71). Sự phản ảnh đại kết đương thời đã mang lại một số khả thể mới để vượt qua sự đối lập truyền thống này.

2.2.1. MINH GIẢI CỦA KHOA CHÚ GIẢI

49. Một số cuộc đối thoại thần học đã phản ảnh về ý nghĩa của thuật ngữ “quyền thần linh” (ius divinum). Những người Công Giáo tham gia vào cuộc đối thoại Lutheran-Công Giáo tại Hoa Kỳ đã tuyên bố, “Trong những thế kỷ trước người ta thường nghĩ rằng thuật ngữ này liên quan đến, trước tiên, việc thiết lập bằng một hành động chính thức của chính Chúa Giêsu, và thứ hai, một sự chứng thực rõ ràng về hành động đó bởi Tân Ước hoặc theo một số truyền thống được cho là có từ thời các tông đồ”. Do đó, họ có thể thừa nhận: “Vì ‘quyền thần thiêng’ đã trở nên nặng nề với những hàm ý đó, nên bản thân thuật ngữ này không truyền đạt đầy đủ những gì chúng ta tin về việc thiết lập ngôii vị giáo hoàng bởi Thiên Chúa” (L–C US, 1973). Trong một tài liệu sau đó, cùng một ủy ban này chủ trương rằng “các phạm trù luật thần thiêng và luật nhân bản cần được xem xét lại và đặt trong bối cảnh thừa tác vụ như là việc phục vụ cho sự hiệp thông của ơn cứu rỗi” (L–C US 2004, 74). Như ARCIC I đã nêu, ius divinum “không cần phải hiểu là quyền tối thượng phổ quát như một thể chế thường trực được Chúa Giêsu trực tiếp thành lập trong thời gian Người sống trên trái đất. Thuật ngữ này cũng không có nghĩa là vị giáo phẩm phổ quát là ‘nguồn gốc của Giáo hội’ như thể sự cứu rỗi của Chúa Kitô phải được truyền tải qua ngài. Thay vào đó, ngài phải là dấu chỉ của koinonia hữu hình mà Chúa muốn dành cho Giáo hội và là công cụ để hiện thực hóa sự hiệp nhất trong tính đa dạng. Chính đối với một vị giáo phẩm phổ quát được hình dung như vậy trong tính hợp đoàn của các giám mục và tính hiệp thông của toàn thể Giáo hội mà có thể áp dụng được tiêu chí iure divino” (ARCIC 1981, 11).

Trong khi phản hồi chính thức của Công Giáo năm 1991 đối với ARCIC I đã bày tỏ sự dè dặt liên quan đến sự hiểu biết này, thì Bộ Giáo lý Đức tin đã sử dụng một công thức tương tự vào năm 1998, bằng cách nói rằng “hàng giám mục và quyền tối thượng, có liên quan qua lại và không thể tách rời, là do Thiên Chúa thiết lập” (The Primacy of the Successor of Peter in the Mystery of the Church [Quyền tối thượng của Người kế vị Thánh Phêrô trong Mầu nhiệm Giáo hội, 6).

50. Tương tự như vậy, cuộc đối thoại Công Giáo-Công Giáo Cũ khẳng định:

“Nếu ‘thừa tác vụ Phêrô’ có nghĩa là một thừa tác vụ, được thực hiện trong một viễn cảnh phổ quát bởi Đức Giáo Hoàng, nhằm phục vụ cho sự hiệp nhất, sứ mệnh và tính đồng nghị của các giáo hội địa phương do các giám mục lãnh đạo và đại diện, thì thần học Công Giáo Cũ cũng có thể thực sự đồng ý với những gì được ám chỉ bởi thuật ngữ ‘quyền thần thiêng’ (đối với họ xa lạ) theo nghĩa được gợi ý ở trên (xem thêm A–RC/Authority II, 10–15)” (OC–C 2009, 47).

51. Dựa trên sự khác biệt giữa esse (yếu tính) và bene esse (lợi ích) của Giáo hội, cuộc đối thoại quốc tế giữa Luther và Công Giáo đã nêu vào năm 1972: “Câu hỏi […] vẫn còn gây tranh cãi giữa người Công Giáo và Luther là liệu quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng có cần thiết đối với Giáo hội hay không, hay liệu nó chỉ đại diện cho một chức năng về cơ bản chỉ có tính khả hữu” (L–C 1972, 67). Nhóm Farfa Sabina đã bày tỏ một ý tưởng tương tự khi phân biệt các vấn đề cần thiết cho hữu thể và sự hiệp nhất của Giáo hội: “Ở đây một sự phân biệt khác có thể trở nên quan trọng: cụ thể là, sự khác biệt giữa những gì cần thiết cho hữu thể của Giáo hội và những gì cần thiết cho sự hiệp nhất của Giáo hội. Phải thừa nhận rằng, sự phân biệt như vậy giữa hữu thể và sự hiệp nhất của Giáo hội cũng gây ra khó khăn, vì sự hiệp nhất thuộc về các thuộc tính yếu tính của Giáo hội: nó thuộc về chính hữu thể của Giáo hội. Tuy nhiên, sự cởi mở mới đối với một hình thức tối thượng được chứng tỏ trong chủ nghĩa đại kết ngày nay gần như buộc chúng ta phải thực hiện sự phân biệt như vậy” (Farfa 2009, 124).

2.2.2. CẢ DO THẦN QUYỀN (DE IURE DIVINO) LẪN DO NHÂN QUYỀN (DE IURE HUMANO)?

52. Những minh giải của khoa chú giải đã giúp đưa sự phân biệt giữa ‘de iure divino’ và ‘de iure humano’ vào một góc nhìn mới. Cuộc đối thoại quốc tế giữa Luther và Công Giáo, trong “Báo cáo Malta”, đã chỉ ra rằng hai khái niệm này đã bị tách biệt quá rõ ràng: “Nhận thức sâu sắc hơn về tính lịch sử của giáo hội kết hợp với sự hiểu biết mới về bản chất giáo hội học của nó, đòi hỏi việc trong thời đại của chúng ta, các khái niệm về ius divinum ius humanum phải được suy nghĩ lại.... Ius divinum không bao giờ có thể phân biệt đầy đủ với ius humanum. Chúng ta chỉ có ius divinum như được truyền đạt thông qua các hình thức lịch sử cụ thể” (L–C 1972, 31). Theo cuộc đối thoại Luther-Công Giáo tại Hoa Kỳ, quyền tối thượng của giáo hoàng vừa là ‘de iure divino’ vừa là ‘de iure humano’: vừa là một phần trong ý muốn của Thiên Chúa đối với Giáo hội vừa được lịch sử loài người làm trung gian.

Vì lý do này, quyền tối thượng của giáo hoàng vừa có tính liên quan về thần học vừa chào đón việc thích ứng. Trong những suy tư của những người tham gia thuộc phái Lutheran, có đoạn: “Tuy nhiên, trong cuộc thảo luận của mình, chúng tôi đã phát hiện ra rằng, thông qua một loạt các cuộc điều tra lịch sử cẩn thận, sự phân biệt truyền thống giữa de iure humano de iure divino không cung cấp các phạm trù có thể sử dụng cho cuộc thảo luận đương thời về chức giáo hoàng”. Một mặt, những người Lutheran không muốn coi việc thực thi Thừa tác vụ phổ quát như thể nó chỉ là tùy chọn. Ý của Thiên Chúa muốn giáo hội có các phương tiện định chế cần thiết để cổ vũ sự hiệp nhất trong tin mừng. Mặt khác, những người Công Giáo Rôma, sau Công đồng Vatican II, nhận thức rằng có nhiều cách thực hiện quyền tối thượng của giáo hoàng” (L–C US 1973, 35).

53. Tương tự như vậy, cuộc đối thoại Chính thống giáo-Công Giáo đã xem xét lại trọng lượng thần học của các yếu tố đôi khi được coi là chỉ đơn thuần mang tính định chế hoặc pháp lý trong đời sống của Giáo hội. Như tài liệu Chieti đã nêu: “Thiên Chúa tự mặc khải trong lịch sử. Điều đặc biệt quan trọng là cùng nhau thực hiện một bài đọc thần học về lịch sử phụng vụ, linh đạo, các định chế và giáo luật của Giáo hội, luôn có chiều kích thần học” (O–C, 2016, 6). Thật vậy, vì Giáo hội vừa mang tính thần linh vừa mang tính nhân bản, các định chế và giáo luật của Giáo hội không chỉ có giá trị tổ chức hoặc kỷ luật, mà còn là biểu thức của đời sống Giáo hội dưới sự lãnh đạo của Chúa Thánh Thần. Trong số các định chế này, cả quyền tối thượng và tính đồng nghị đều thuộc về bản chất của nó, như Nhóm công tác chung Chính thống giáo-Công Giáo Thánh Irenaeus đã khẳng định: “Quyền tối thượng và tính đồng nghị không phải là những hình thức quản lý giáo hội tùy ý chọn lựa, mà thuộc về bản chất của giáo hội vì cả hai đều nhằm mục đích củng cố và làm sâu sắc thêm sự hiệp thông ở mọi bình diện” (Thánh Irenaeus 2018, 16; một cách có ý nghĩa, Công đồng Vatican II dạy rằng tính hợp đoàn bắt nguồn từ “sự thiết lập và lệnh truyền của Chúa Kitô”, xem bên dưới § 66).

54. ARCIC cũng cố gắng thiết lập sự hội tụ về mặt tín lý bằng cách diễn giải khái niệm truyền thống de iure divino là “một hồng ân của sự quan phòng Thiên Chúa” hoặc là “một hiệu quả của sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong Giáo hội”: “Tuy nhiên, thỉnh thoảng các nhà thần học Anh giáo đã khẳng định rằng, trong những hoàn cảnh thay đổi, các giáo hội của Cộng đồng Anh giáo có thể công nhận sự phát triển của quyền tối thượng của Rôma như một hồng ân của sự quan phòng thần thiêng – nói cách khác, là một hiệu quả của sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong Giáo hội. Với cách diễn giải trên về ngôn ngữ quyền thần thiêng trong Công đồng Vatican I, có lý do để hỏi liệu có thực sự hiện hữu khoảng cách giữa việc khẳng định quyền tối thượng theo quyền thần linh (iure divino) và việc thừa nhận sự xuất hiện của nó bởi ơn quan phòng thần linh (divina providentia)” (ARCIC 1981, 13). Trong bối cảnh của giáo hội học communio, ARCIC kết luận: “Trước đây, giáo huấn Công Giáo Rôma cho rằng giám mục Rôma là linh mục hoàn cầu theo quyền hoặc luật thần linh đã bị những người Anh giáo coi là không thể chấp nhận được. Tuy nhiên, chúng tôi tin rằng quyền tối thượng của giám mục Rôma có thể được khẳng định như một phần trong kế hoạch của Thiên Chúa dành cho việc hiệp thông (koinonia) hoàn cầu theo các điều khoản tương thích với cả hai truyền thống của chúng tôi” (ARCIC 1981, 15; Hội nghị Lambeth năm 1988 đã chấp thuận sự hiểu biết này, xem Nghị quyết 8, điểm 3).

2.2.3. “NECESSITAS ECCLESIÆ”: YẾU TÍNH THẦN HỌC VÀ TÍNH NGẪU NHIÊN LỊCH SỬ

55. Một phần nhờ vào sự suy tư đại kết, sự phân biệt giữa ‘de iure divino’ và ‘de iure humano’ đã phần lớn được thay thế bằng sự phân biệt giữa yếu tính thần học và tính ngẫu nhiên lịch sử của quyền tối thượng. Xem xét cách thức quyền tối thượng của giáo hoàng được xác định sâu sắc như thế nào bởi những thách thức, mệnh lệnh, nhiệm vụ và mối đe dọa lịch sử dưới mọi hình thức (ví dụ: giáo hội, chính trị, văn hóa), có thể và nên phân biệt rõ ràng hơn giữa yếu tính tín lý của quyền tối thượng của giáo hoàng và phong cách hoặc hình dạng lịch sử ngẫu nhiên của nó. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã bày tỏ sự phân biệt này trong Ut unum sint khi ngài chấp nhận yêu cầu “tìm cách thực thi quyền tối thượng, mặc dù không từ bỏ những gì thiết yếu đối với sứ mệnh của mình, nhưng vẫn mở ra một tình huống mới” (UUS 95). Bộ Giáo lý Đức tin, trong “Những xem xét” của mình được xây dựng để đáp lại lời mời này, đã giải thích sự phân biệt theo cách này: “Các nội dung cụ thể của việc thực thi phân biệt thừa tác vụ Phêrô bao lâu chúng trung thành phát biểu việc áp dụng mục đích tối thượng của nó (sự hiệp nhất của Giáo hội) vào các hoàn cảnh thời gian và địa điểm. Mức độ lớn hơn hay nhỏ hơn của những nội dung cụ thể này sẽ phụ thuộc vào necessitas Ecclesiæ [tính cần thiết của Giáo Hội] trong mọi thời đại” (The Primacy of the Successor of Peter in the Mystery of the Church [Quyền tối thượng của Người kế vị Thánh Phêrô trong Mầu nhiệm Giáo hội], 12).

56. Nếu sự hiệp nhất Kitô giáo là một trong những ‘cần thiết hàng đầu của Giáo hội’, thì quyền tối thượng của giáo hoàng có thể được thực thi như thế nào để tuân thủ sự thiết này? Điều gì liên quan đến trật tự de iure divino và điều gì có thể được coi là ngẫu nhiên? “Thừa tác vụ hiệp nhất cũng được định nghĩa như ‘Thừa tác vụ Phê-rô’. Thừa tác vụ này như một yếu tố lâu dài trong giáo hội của Chúa Ki-tô đã tìm được sự kính trọng cần và biểu thức sống động từ những ngày tiên khởi nhất. Tuy nhiên, trong quá trình lịch sử, các cuộc tranh luận đã nảy sinh về các cấu trúc và hình thức cụ thể của biểu thức này” (L–C Germ 2000, 153). Thật vậy, nhiều vấn đề, nỗi sợ hãi hoặc sự bất mãn đại kết chủ yếu liên quan đến các đặc điểm ngẫu nhiên và do đó có thể thay đổi của quyền tối thượng của giáo hoàng.

Một số đặc điểm của quyền tối thượng của giáo hoàng, ban đầu đáp ứng một nhu cầu thực sự trong một giai đoạn cụ thể của lịch sử Giáo hội, vẫn tiếp tục tồn tại, ngay cả sau khi lý do cho nguồn gốc của chúng đã biến mất. “Người ta phải đặt câu hỏi về việc liệu Giáo Hội Công Giáo Rôma, về căn bản, có nhìn thấy khả thể về một hình thức hiệp thông của các giáo hội không phải Công Giáo với giáo hoàng hay không, trong đó yếu tính của Thừa tác vụ hiệp nhất của Phêrô được bảo tồn, nhưng ở các hình thức quy điển khác với những hình thức đã được trình bày là chuẩn mực kể từ thời Trung cổ, và đặc biệt là trong thời kỳ hiện đại” (L–C Germ 2000, 200). Điều tương tự cũng đúng đối với việc mở rộng quyền tối thượng của giáo hoàng trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống Giáo hội; hoàn cảnh lịch sử, từng biện minh cho việc mở rộng quyền tối thượng ít nhiều có ảnh hưởng sâu rộng trong các vấn đề của Giáo hội, có thể đã thay đổi. Do đó, điều quan trọng là phải phân biệt giữa yếu tính của một thừa tác vụ tối thượng và bất cứ cách thức cụ thể nào mà thừa tác vụ này đã hoặc đang được thực hiện” (FO 2013 TCTCV, 56). Cuối cùng, cuộc điều tra lịch sử là một phương tiện thiết yếu trong việc chữa lành ký ức. Thay vì yếu tính thần học của nó, nhiều "vết thương" có thể chủ yếu liên quan đến những cách thức thực hiện quyền tối thượng một cách ngẫu nhiên, và cũng liên quan đến những thất bại cá nhân. Tóm lại: các văn kiện đại kết yêu cầu chú ý nhiều hơn và đánh giá các điều kiện lịch sử ảnh hưởng đến việc thực thi quyền tối thượng ở nhiều khu vực và thời kỳ khác nhau. Thật vậy, “mặc dù theo những cách khác nhau và ở mức độ khác nhau, các giáo hội ở cả phương Đông lẫn phương Tây thường phải đối diện với cơn cám dỗ muốn gộp chung quyền lãnh đạo giáo hội với quyền lực thế tục và các định chế của nó” (Thánh Irenaeus 2018, 5.4).

Còn tiếp