1. Bộ văn hóa của Ukraine trả lại nhà thờ cho Công Giáo
Bộ văn hóa của chính phủ Ukraine phải trả lại cho Giáo Hội Công Giáo tại nước này nhà thờ thánh Nicola, sau nhiều năm tranh chấp.
Cách đây gần 20 năm, ngày 09 tháng Mười Hai năm 2005, Tổng thống Ukraine, hồi đó là ông Viktor Yushchenko, đã ra lệnh trả lại cho nhà thờ thánh Nicôla cho giáo xứ Công Giáo tại thủ đô Kyiv. Thánh đường này đã bị chế độ cộng sản trước đó tịch thu và biến thành nhà hòa nhạc.
Tuy nhiên, sau đó Bộ văn hóa và truyền thông chiến lược của Ukraine kiện lên tòa án tối cao. Nhưng ngày 24 tháng Bảy vừa qua, tòa án này từ chối không cứu xét đơn kháng án.
Cha Pawel Wyszkowski, Dòng Hiến sinh Đức Mẹ vô nhiễm, gọi tắt là OMI, cha sở giáo xứ thánh Nicola, nói rằng “Nay chúng tôi chờ đợi Bộ văn hóa thực sự trao trả lại nhà thờ cho giáo xứ chúng tôi càng sớm càng tốt. Chúng tôi muốn chính thức được nhìn nhận là sở hữu chủ và là người sử dụng nhà thờ này. Cha cũng cám ơn tất cả những người đã ủng hộ giáo xứ trong những năm qua.”
Cha Pawel nói thêm rằng: “đây không phải là một sự kết thúc, nhưng là một cuộc bắt đầu mới. Có bao nhiêu công việc đang chờ đợi chúng tôi: chúng tôi cần sửa chữa lại các cửa sổ trước khi mùa đông bắt đầu, điều mà Bộ văn hóa đã hứa làm hồi tháng Mười Hai năm ngoái (2024), và chúng tôi cần nhổ các cây đã mọc lên trên mái và tường của nhà thờ.
Nhà thờ thánh Nicola được xây cất trong khoảng thời gian từ 1899 đến 1909 theo kiểu tân Gô-tích và là một trong những thánh đường đẹp nhất ở thủ đô Kyiv. Nhà thờ được thánh hiến ngày 19 tháng Mười Hai năm 1909, trước sự hiện diện của hàng ngàn tín hữu. Năm 1930, nhà nước cộng sản Bôn-xê-vích kết án cha sở bảy năm lao động khổ sai và cha qua đời năm 1935 tại đảo Solovetsky.
Năm 1938 nhà nước đóng cửa nhà thờ và giải tán giáo xứ, đồng thời biến thánh đường thành nhà kho chứa đồ. Trong cuộc giao tranh xảy ra hồi mùa thu năm 1943, thời Thế chiến thứ II, nhà thờ bị hư hại vì bị đạn pháo làm hư hại các tường và một phần bên trong. Sau chiến tranh, thánh đường được tái thiết, nhưng những kiếng màu và các bức tranh bị phá hủy. Ngày 13 tháng Mười Hai năm 1979, chính phủ Cộng hòa Ukraine thuộc Liên bang Sô Viết bấy giờ biến nhà thờ thánh Nicôla thành nhà hòa nhạc.
Sau khi Ukraine được độc lập khỏi Liên Xô, thánh lễ đầu tiên được cử hành tại nhà thờ thánh Nicôla hồi tháng Giêng năm 1992 và ngày 25 tháng Sáu năm 2001, trong cuộc viếng thăm ở Kyiv, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viếng nhà thờ này.
Hồi đó, Tổng thống Leonid Kuchma đã hứa với Đức Giáo Hoàng là sẽ trả lại nhà thờ cho Giáo Hội Công Giáo. Một tuần sau đó, Thủ tướng Denys Shmyhal ký lệnh trả nhà thờ, nhưng hết hạn, chẳng có gì thay đổi. Ngày 01 tháng Sáu năm 2022, chính quyền thành Kyiv chính thức trao trả nhà thờ thánh Nicôla, cho giáo xứ tại đây, nhưng không tiến hành thực sự. Tháng Mười Hai năm 2023, Bộ trưởng Văn hóa lâm thời Rostyslav Karandieyev ký lệnh trả nhà thờ cho giáo xứ, ngày 01 tháng Năm năm ngoái, 2024.
2. Francis Xavier Rocca: Đức Giáo Hoàng Lêô XIV: Vị Giáo Hoàng người Mỹ trầm lặng
Francis Xavier Rocca là Biên tập viên Vatican của EWTN News. Ông đã đưa tin về Vatican từ năm 2007, gần đây nhất là cho tờ The Wall Street Journal, nơi ông cũng đưa tin về tôn giáo toàn cầu. Ông cũng viết bài cho Time, The Times Literary Supplement và The Atlantic, cùng nhiều ấn phẩm khác. Rocca là đạo diễn của bộ phim tài liệu “Tiếng nói của Công đồng Vatican II: Những người tham dự hồi tưởng về Công đồng”.
Ông vừa có bài viết nhan đề “Pope Leo XIV: The Quiet American”, nghĩa là “Đức Giáo Hoàng Lêô XIV: Người Mỹ trầm lặng”. Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Ngay khi có thông báo từ ban công của Đền Thờ Thánh Phêrô rằng Hồng Y đoàn đã chọn Đức Hồng Y Robert Prevost sinh ra ở Chicago làm giáo hoàng, tôi đã chia sẻ sự phấn khích rộng rãi với các đồng nghiệp báo chí của mình, cả người Công Giáo lẫn những người khác — đặc biệt là người Mỹ.
Kết quả thậm chí còn đáng đưa tin hơn cả việc các Hồng Y chọn một người Phi Châu hay Á Châu, dù kết quả đó hẳn đã rất thú vị. Xét về góc độ báo chí thuần túy, việc bầu một giáo hoàng sinh ra và lớn lên ở Mỹ - là điều mà theo lẽ thường tình chúng ta vẫn cho là bất khả thi cho đến tận lúc chúng ta biết chuyện gì đã xảy ra – nó bất ngờ như thể vừa phát hiện ra mỏ vàng.
Lần đầu tiên, người Mỹ sẽ được nghe vị lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo nói tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ, và mỗi lời nói của ngài, đều được phân tích như những lời bình luận về hành động của Tổng thống Trump, người mà bản thân ngài cũng là một chương trình làm việc độc lập cho các phóng viên. Hai người đàn ông này gần như xuất hiện liên tục trên một màn hình chia đôi, vừa mang tính tượng trưng, vừa mang tính thực tế. Rôma sẽ trở thành thủ đô truyền thông sánh ngang với Washington và New York.
Rất nhiều người trong chúng ta đã nghĩ như vậy.
Ngày nay, gần ba tháng sau khi Đức Giáo Hoàng Lêô XIV được bầu, thực tế truyền thông đã đi ngược lại những kỳ vọng đó. Ngoại trừ các kênh Công Giáo như National Catholic Register, vốn dĩ đã đưa tin về ngài với sự nhiệt tình và hăng hái cần thiết cho sứ mệnh và độc giả của họ, Đức Lêô hiếm khi xuất hiện trên báo chí như một vị giáo hoàng mới.
Nhìn lại, lẽ ra chúng ta nên nhận ra rằng hầu như không có người kế nhiệm Đức Giáo Hoàng Phanxicô nào có thể sánh được với vị Giáo hoàng người Á Căn Đình mà các phóng viên có thể gọi là một bản sao xuất sắc. Với phong cách độc đáo, niềm đam mê bất ngờ và sở thích mơ hồ, Đức Phanxicô liên tục khơi dậy tranh cãi và sự chú ý — từ việc chọn tên gọi không theo truyền thống khi bắt đầu triều Giáo Hoàng cho đến lần xuất hiện bất ngờ mà không mặc trang phục giáo sĩ tại Đền Thờ Thánh Phêrô ngay trước khi kết thúc nhiệm kỳ. Xu hướng phá vỡ kịch bản tại các sự kiện chính thức và cách nói chuyện không trang trọng trong các cuộc họp báo của ngài đã tạo ra vô số phát ngôn đáng trích dẫn, trong đó câu nói “Tôi là ai mà phán xét?” là câu nói nổi tiếng nhất.
Ngược lại, Đức Lêô đã cẩn thận tuân thủ truyền thống và nghi thức của giáo hoàng. Ngôn ngữ của ngài sâu sắc và chừng mực nhưng không đặc biệt về phong cách. Phong thái của ngài khiêm tốn, thậm chí khiêm nhường, có lẽ là di sản từ nguồn gốc Trung Tây của ngài. Cuộc phỏng vấn báo chí duy nhất của ngài kể từ khi được bầu làm giáo hoàng, với truyền hình Ý tháng trước, kéo dài chưa đầy ba phút và không đưa tin gì mới. Ngài đảm nhận vai trò này với sự tự tin rõ rệt — “Cứ như thể ngài đã làm giáo hoàng cả trăm năm rồi vậy,” một quan chức Vatican nói với tôi gần đây — nhưng thay vì thống trị chức vụ, ngài đã hòa mình vào đó.
Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô 16 đã từng thử làm điều tương tự sau vị tiền nhiệm đầy lôi cuốn và hướng ngoại của mình. Tuy nhiên, trước khi được bầu làm Giáo Hoàng, trong vai trò tổng trưởng bgldt bgldt, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger đã trải qua hai thập niên là một nhân vật quốc tế gây chia rẽ, cả trong lẫn ngoài Giáo hội. Đức Hồng Y Prevost không được biết đến rộng rãi trước khi được bầu.
Đức Giáo Hoàng hiện tại cũng đã hạ thấp bản sắc Mỹ, yếu tố bảo đảm vị trí của ngài trong lịch sử. Khi bước ra ban công để lần đầu tiên phát biểu trước thế giới, Đức Giáo Hoàng Lêô đã chuyển từ tiếng Ý sang tiếng Tây Ban Nha để gửi lời chào đặc biệt đến Giáo phận Chiclayo, Peru, nơi ngài từng là giáo phận, nhưng không hề nói tiếng Anh hay nhắc đến quê hương Chicago của mình. Kể từ đó, ngài ít sử dụng tiếng Anh, có lẽ vì việc nói thứ ngôn ngữ chung của thế giới sẽ không chỉ làm tăng tầm ảnh hưởng mà còn cả sự soi xét kỹ lưỡng trong lời nói của ngài, đặc biệt là về các vấn đề gây tranh cãi.
Phản ứng của Đức Lêô trước những sự kiện như vụ Mỹ ném bom Iran và cuộc không kích của Israel khiến ba người thiệt mạng tại một nhà thờ Công Giáo ở Gaza đã được kiềm chế đáng kể so với những gì chúng ta mong đợi từ Đức Phanxicô, người đã ví chiến dịch của Israel tại vùng đất Palestine này với chủ nghĩa khủng bố và cho rằng nó có thể được coi là diệt chủng. Đức Giáo Hoàng đã tôn vinh người di cư và người tị nạn là “sứ giả của hy vọng”, nhưng ngài chưa đưa ra bất kỳ tuyên bố nào mạnh mẽ hay có tầm ảnh hưởng sâu rộng như bức thư ngỏ của Đức Phanxicô gửi các giám mục Hoa Kỳ hồi tháng 2 năm ngoái, lên án chính sách trục xuất của chính quyền Tổng thống Trump.
Nhiều người trong chúng tôi, những người kiếm sống bằng việc loan tin về Vatican, chắc chắn rằng vị giáo hoàng mới, dù ngài là ai, sẽ gây ra tranh cãi dữ dội nếu ngài đảo ngược bất kỳ sự chệch hướng nào khỏi truyền thống vốn đã giúp định hình triều Giáo Hoàng của Đức Phanxicô trong mắt công chúng. Nhưng những quyết định của Đức Lêô theo hướng đó — từ việc mặc áo mozzetta trong lần xuất hiện đầu tiên đến việc nghỉ dưỡng tại biệt thự Castel Gandolfo của giáo hoàng — không hề vấp phải sự chỉ trích đáng kể nào, hay cảnh báo nào về chủ nghĩa phục hồi đang lan rộng, từ những người ngưỡng mộ cấp tiến của vị tiền nhiệm.
Dĩ nhiên, hầu hết người Công Giáo đều bằng lòng để Đức Giáo Hoàng dẫn dắt theo ý ngài. Các nhóm thiểu số cả tả lẫn hữu vẫn hy vọng sẽ nhận ngài làm giáo hoàng, và hiện tại, họ bằng lòng cho rằng ngài đồng quan điểm với họ, khiến họ chẳng có lý do gì để phàn nàn.
Trong thời gian chuẩn bị cho Cơ Mật Viện Hồng Y gần đây nhất, đã có nhiều cuộc thảo luận giữa các Hồng Y và giáo dân Công Giáo về sự phân cực trong Giáo hội đã gia tăng dưới thời Đức Phanxicô, và những tranh cãi về việc ai phải chịu trách nhiệm cho sự phân cực đó chỉ làm gia tăng thêm bất hòa. Đức Lêô đã ám chỉ rằng sự hiệp nhất của Giáo hội, một giá trị mà ngài đã đề cập đến sáu lần trong bài giảng tại Thánh lễ nhậm chức, sẽ là ưu tiên hàng đầu trong triều đại của ngài. Hiện tại, việc ngài khá kín tiếng đã góp phần giữ gìn hòa bình.
“Ngài giữ kín quân bài của mình,” một người quen lâu năm của Đức Lêô nói với tôi ngay sau khi ngài đắc cử, và những người khác từng làm việc gần gũi với ngài cũng đồng tình. Nhưng sớm muộn gì, ngài cũng sẽ tiết lộ chúng, dù bằng những tuyên bố rõ ràng về các tranh cãi trong Giáo hội hay bằng những điều ngài chọn không nói ra. Khi đó, Đức Giáo Hoàng sẽ lại xuất hiện trên báo chí, dù ngài có muốn hay không.
Source:National Catholic Register
3. Nhật ký trừ tà #354: Làm im lặng kẻ tố cáo vĩ đại*
Đức Ông Stephen Rossetti, Nhà Trừ Tà của giáo phận Syracuse, phó giáo sư nghiên cứu tại Đại học Công Giáo Hoa Kỳ vừa có bài viết nhan đề “Exorcist Diary #354: Silencing the Great Accuser*”, nghĩa là “Nhật ký trừ tà #354: Làm im lặng kẻ tố cáo vĩ đại*”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.
Là con người sau sự sa ngã của A-đam và Ê-va, tất cả chúng ta đều trải qua những khiếm khuyết còn sót lại của nhân tính sa ngã. Ví dụ, tất cả chúng ta đều bị bệnh; chúng ta bị những đam mê rối loạn; trí tuệ chúng ta bị lu mờ; và trạng thái tinh thần của chúng ta không còn hoàn toàn khỏe mạnh và thánh thiện nữa. Điều này không hề xảy ra trước khi A-đam và Ê-va sa ngã.
Một hậu quả tiêu cực của sự Sa Ngã là một cảm nhận rối loạn về bản thân: chúng ta dễ bị tổn thương bởi lòng tự trọng thấp, hoặc biểu hiện dường như trái ngược của nó là tính tự luyến (thực ra chỉ là một lớp vỏ bọc giả tạo che đậy hình ảnh bản thân đã bị tổn thương này). Satan biết rõ sự yếu đuối của chúng ta. Hắn sẽ lợi dụng nó bất cứ khi nào có thể. Lũ tay sai của hắn âm thầm tấn công chúng ta bằng những suy nghĩ tự hạ thấp bản thân, hy vọng dẫn chúng ta đến một trong những trạng thái ưa thích của hắn: là tuyệt vọng. Hắn là “kẻ tố cáo lớn” (Khải Huyền 12:10).
Làm sao chúng ta biết được những lời tự vấn tiêu cực trong đầu mình đang được tiếp sức bởi Kẻ Tố Cáo Vĩ Đại (tức là những ám ảnh ma quỷ)? Một số dấu hiệu rõ ràng là: những suy nghĩ tiêu cực xuất hiện khá đột ngột; chúng dữ dội một cách bất thường; chúng phóng đại thực tế; chúng cám dỗ tâm hồn đến tuyệt vọng. Một số hoặc tất cả chúng có thể tan biến khi được đáp lại bằng lời cầu nguyện.
Sau đây là ba bước sẽ giúp ích nếu những suy nghĩ trong đầu bạn đang bị Satan phóng đại, tức là chúng là nỗi ám ảnh của ma quỷ:
Thứ nhất. Nhận ra sự hiện diện của Satan và “loại bỏ” những suy nghĩ tiêu cực mạnh mẽ này. Điều quan trọng là phải nhận ra rằng những suy nghĩ dày vò này không phải của bạn; chúng đến từ Satan.
Thứ hai. Hãy thẳng thắn từ chối chúng, tốt nhất là nói to, nói ba chữ R: “Nhân danh Chúa Giêsu, tôi từ chối chúng; tôi khiển trách chúng; tôi từ bỏ chúng; và tôi đuổi chúng ra.” Bạn có thẩm quyền đối với cơ thể và tâm trí của mình, vậy hãy ra lệnh cho Satan rời đi!
Thứ ba. Hãy chào đón Thiên Chúa, Đấng yêu thương và tha thứ cho bạn. Hãy thưa: “Lạy Chúa Giêsu, con là kẻ tội lỗi, nhưng Chúa yêu thương con, Chúa tha thứ cho con, Chúa ban cho con sự bình an của Chúa.”
Điều nguy hiểm nhất của những ám ảnh ma quỷ là Ác Quỷ ẩn mình nên người ta không nhận ra nguồn gốc tội lỗi của mình. Người ta có thể tin rằng mình có khiếm khuyết khủng khiếp và sẽ mãi mãi bị dày vò. Đáng buồn thay, tôi tin rằng không ít linh hồn đã rơi vào cái bẫy này và bị cám dỗ kết liễu cuộc đời. Khi linh hồn nhận ra và chấp nhận hành động của Satan, rồi từ chối và trục xuất hắn, những đau khổ của Satan thường giảm bớt, nếu không muốn nói là hoàn toàn im lặng.
Linh hồn nên thường xuyên đặt nền tảng trên những chân lý căn bản của Kitô giáo: Satan là bụi đất. Chúa Giêsu là Chúa. Chúa Giêsu yêu thương tôi và tha thứ cho tôi. Thiên Chúa cho phép Satan cám dỗ và quấy nhiễu tôi trong cuộc đời này, giống như chính Chúa Giêsu đã chịu đau khổ và chết. Nhưng Thiên Chúa sẽ ban cho tôi sức mạnh để kiên trì. Những cám dỗ này được phép xảy ra để tôi được thánh hóa - tôi được chia sẻ những đau khổ của Chúa Kitô.
Tôi rất tiếc khi bất kỳ ai trong số anh chị em phải chịu đựng những đau khổ về tinh thần. Đáng buồn thay, đó là hậu quả của tội nguyên tổ, sau đó bị Satan lợi dụng và khuếch đại. Nhưng Chúa đã mang lại ân sủng từ đau khổ, cũng như Ngài đã mang lại sự sống mới của sự phục sinh từ thập giá của Chúa Giêsu. Hãy tiếp tục cuộc chiến đấu tốt đẹp! Thế giới cần các bạn; đạo quân của Chúa cần anh chị em. Anh chị em có giá trị vô hạn trong mắt Chúa, và đó là tất cả những gì quan trọng.
Source:Catholic Exorcism
4. Nhà nước Palestine và trách nhiệm của Cộng đồng quốc tế
Thảm kịch đang diễn ra ở Gaza đòi hỏi sự chung tay của nhân loại và sự cấp bách của một phản ứng chung trước hoàn cảnh khốn khổ của người dân Palestine, là điều mà Tòa thánh đã liên tục ủng hộ trong nhiều thập niên.
Tổng thống Emmanuel Macron đã tuyên bố Pháp sẽ công nhận Nhà nước Palestine, với một tuyên bố chính thức sẽ được đưa ra tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc vào tháng 9 tới. Trong khi đó, công tác chuẩn bị cho “Hội nghị Quốc tế Cao cấp về Giải quyết Hòa bình Vấn đề Palestine và Thực hiện Giải pháp Hai Nhà nước” đang được tiến hành. Hội nghị này ban đầu dự kiến diễn ra tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York vào tháng 6 năm ngoái, dưới sự chủ trì của chính phủ Pháp và Saudi Arabia, nhưng đã bị hoãn lại do cuộc tấn công của Israel vào Iran.
Thảm kịch đang diễn ra ở Gaza - những vụ thảm sát liên tiếp khiến hàng chục ngàn thường dân vô tội thiệt mạng dưới bom đạn, và giờ đây đang chết đói, chết khát, hoặc bị bắn khi đang tìm kiếm thức ăn - cần phải cho mọi người thấy rõ tính cấp thiết của việc chấm dứt các cuộc tấn công quân sự đang gây ra thảm sát này. Đồng thời, điều này cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tìm ra giải pháp cho vấn đề Palestine. Đây là giải pháp mà Tòa Thánh đã kiên trì kêu gọi trong nhiều thập niên qua, và không thể thực hiện được nếu không có sự đóng góp tích cực của cộng đồng quốc tế, cũng như các quốc gia liên quan trực tiếp.
Thật hữu ích khi nhớ lại rằng Tòa thánh đã ký một thỏa thuận cơ bản với Tổ chức Giải phóng Palestine, gọi tắt là PLO 25 năm trước. Sau đó, mười năm trước, Tòa thánh đã ký một Thỏa thuận Toàn diện với Nhà nước Palestine, có hiệu lực vào Tháng Giêng năm 2016. Quyết định và sự công nhận này phù hợp với mối quan tâm mà các Giáo hoàng đã bày tỏ kể từ năm 1948 về tình trạng của các Địa điểm Thánh và số phận của người dân Palestine. Giáo hoàng Phaolô VI là Giáo hoàng đầu tiên khẳng định rõ ràng rằng người Palestine là và vẫn là một dân tộc, chứ không chỉ là một nhóm người tị nạn chiến tranh. Trong thông điệp Giáng Sinh năm 1975, ngài đã yêu cầu con cái của người Do Thái, những người có Nhà nước Israel có chủ quyền đã được thành lập, “hãy công nhận các quyền và nguyện vọng chính đáng của một dân tộc khác, những người cũng đã chịu đau khổ trong một thời gian dài - người dân Palestine”.
Vào đầu những năm 1990, Đức Gioan Phaolô II đã thiết lập quan hệ với cả Nhà nước Israel vào năm 1993 và Tổ chức Giải phóng Palestine, gọi tắt là PLO vào năm 1994, vào thời điểm mà dường như hai bên đã gần đạt được một thỏa thuận và sự công nhận lẫn nhau về hai Nhà nước. Vào tháng 2 năm 2000, vài tháng trước khi Thủ tướng Israel Ariel Sharon bước vào khu phức hợp Nhà thờ Hồi giáo Al-Aqsa châm ngòi cho cuộc Intifada lần thứ hai, Tòa thánh đã ký Thỏa thuận Cơ bản nói trên với PLO. Khi đến Bethlehem vào tháng 3 năm 2000, Đức Gioan Phaolô II tuyên bố: “Tòa thánh luôn công nhận rằng người dân Palestine có quyền tự nhiên được có một quê hương, và quyền được sống trong hòa bình và yên tĩnh với các dân tộc khác trong khu vực này. Trên diễn đàn quốc tế, những người tiền nhiệm của tôi và tôi đã nhiều lần tuyên bố rằng sẽ không có hồi kết cho cuộc xung đột đáng buồn ở Thánh Địa nếu không có những bảo đảm vững chắc cho quyền của tất cả các dân tộc liên quan, trên cơ sở luật pháp quốc tế và các nghị quyết và tuyên bố liên quan của Liên Hiệp Quốc.”
Chín năm sau, trong chuyến viếng thăm Thánh Địa, Đức Bênêđíctô XVI tái khẳng định: Hãy để mọi người công nhận rằng Nhà nước Israel có quyền tồn tại, được hưởng hòa bình và an ninh trong phạm vi biên giới quốc tế đã được thỏa thuận. Tương tự, hãy để người dân Palestine được thừa nhận quyền có một quê hương độc lập, có chủ quyền, được sống trong phẩm giá và được tự do đi lại. Hãy để giải pháp hai nhà nước trở thành hiện thực, chứ không phải chỉ là một giấc mơ. Năm 2012, Tòa Thánh đã ủng hộ việc công nhận “Nhà nước Palestine” là thành viên quan sát viên của Liên Hiệp Quốc.
Đức Thánh Cha Phanxicô, trong chuyến thăm Thánh Địa năm 2014, đã phát biểu trước Tổng thống Palestine Mahmoud Abbas: “Đã đến lúc mọi người cần tìm kiếm lòng can đảm để rộng lượng và sáng tạo trong việc phục vụ lợi ích chung, lòng can đảm để xây dựng một nền hòa bình dựa trên sự thừa nhận của tất cả mọi người về quyền tồn tại và chung sống hòa bình và an ninh của hai quốc gia trong phạm vi biên giới được quốc tế công nhận”. Đó cũng là lần đầu tiên ngài gọi quốc gia chủ nhà là “Nhà nước Palestine”.
Điều này dẫn đến Thỏa thuận Toàn diện năm 2015 giữa Tòa thánh và Nhà nước Palestine, trong đó nhấn mạnh giải pháp hai nhà nước đã được hình dung trong Nghị quyết 181 của Liên Hiệp Quốc ngày 11 tháng 11 năm 1947. Lời mở đầu của Thỏa thuận, tham chiếu đến luật pháp quốc tế, nêu rõ các điểm chính, bao gồm: quyền tự quyết của người dân Palestine; mục tiêu của giải pháp hai nhà nước; ý nghĩa biểu tượng và tinh thần của Giêrusalem đối với người Do Thái, Kitô giáo và Hồi giáo; và giá trị tôn giáo và văn hóa phổ quát của nó như một kho báu cho toàn thể nhân loại. Lời mở đầu tái khẳng định quyền của người dân Palestine “tự do, an ninh và phẩm giá trong một Nhà nước độc lập của riêng họ” - một “Nhà nước Palestine độc lập, có chủ quyền, dân chủ và khả thi trên cơ sở đường biên giới trước năm 1967, trên Bờ Tây, bao gồm Đông Giêrusalem và Dải Gaza, chung sống hòa bình và an ninh với tất cả các nước láng giềng”.
Nhắc lại Thỏa thuận cơ bản năm 2000 với PLO, Thỏa thuận toàn diện đã tái khẳng định yêu cầu về “giải pháp công bằng cho vấn đề Giêrusalem, dựa trên các nghị quyết quốc tế”, khẳng định rằng “các quyết định và hành động đơn phương làm thay đổi bản chất và quy chế cụ thể của Giêrusalem là không thể chấp nhận được về mặt đạo đức và pháp lý “ và rằng “bất kỳ biện pháp đơn phương bất hợp pháp nào, dù là loại nào, đều vô hiệu” và “tạo ra trở ngại cho việc tìm kiếm hòa bình”.
Bản tóm tắt ngắn gọn này chứng minh tính nhất quán và thực tế của lập trường được thể hiện trong lời kêu gọi của các Giáo hoàng gần đây, trong các tuyên bố của Tòa thánh gửi Liên Hiệp Quốc và trong các thỏa thuận đã ký kết cho đến nay. Ngay sau vụ tấn công khủng bố vô nhân đạo của Hamas vào ngày 7 tháng 10 năm 2023, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã lên án vụ thảm sát và nhiều lần kêu gọi thả tất cả các con tin. Đồng thời, trong khi công nhận quyền tự vệ của Israel, Tòa thánh đã nhiều lần - và vô ích - kêu gọi kiềm chế trong việc tấn công vào toàn bộ người dân Palestine ở Gaza, và cũng lên án các cuộc tấn công của những người định cư chống lại người Palestine sống ở Bờ Tây, một phần của Nhà nước Palestine. Thật không may, điều này đã không xảy ra: ở Gaza và nhiều nơi khác, có những cuộc tấn công không thể biện minh được và đại diện cho một cuộc thảm sát đè nặng lên lương tâm của tất cả mọi người.
Như Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã tuyên bố rõ ràng trong buổi đọc kinh Truyền tin vào Chúa Nhật, ngày 20 tháng 7, việc “tuân thủ luật nhân đạo” và “tôn trọng nghĩa vụ bảo vệ thường dân, cũng như lệnh cấm trừng phạt tập thể, sử dụng vũ lực bừa bãi và cưỡng bức di dời dân chúng là hết sức cấp bách và cần thiết”. Cộng đồng quốc tế không thể tiếp tục đứng nhìn trong khi cuộc thảm sát này vẫn đang diễn ra. Hy vọng rằng Hội nghị Quốc tế Cao cấp về Giải quyết Hòa bình Vấn đề Palestine và Thực hiện Giải pháp Hai Nhà nước, nhận thức được tính cấp bách của một phản ứng tập thể trước những đau khổ của người dân Palestine, sẽ mạnh mẽ theo đuổi một giải pháp cuối cùng bảo đảm cho họ một nhà nước với biên giới an toàn, được tôn trọng và công nhận.
Source:Vatican News