BÌNH AN LÀ KẾT QUẢ CỦA TÌNH YÊU
Dựa trên lời của Chúa Giêsu, "Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con…", chúng ta suy niệm về sự cao cả, quý trọng của ơn bình an. Nhưng để có được bình an trong cuộc đời, đòi ta phải tha thứ cho nhau. Nhưng tha thứ sẽ không thực hiện được nếu không có lòng yêu mến..
Người ta kể, tại Ấn Độ, trong thời chiến giữa người Ấn giáo và người Hồi giáo, một lần nọ, một người đàn ông Ấn giáo đến gặp Mohandas Gandhi và kể rằng: Một người Hồi giáo đã giết chết con trai của ông. Trong cơn tức giận, ông đã giết chết người đàn ông Hồi giáo để trả thù cho con mình.
Người đàn ông Ấn giáo cho biết: "Từ khi chuyện xảy ra, tôi không thể nào tìm thấy bình an". Gandhi suy nghĩ một lúc rồi nói: "Nếu đúng là sự bình an mà anh muốn, thì đây là điều cần thiết, anh phải làm. Người đàn ông đã bị giết cũng có một người con trai. Anh đã làm cho nó không có cha. Anh phải là cha của nó, nó phải là con trai của anh. Anh phải nuôi dạy nó như con riêng của mình, và phải là cha như cha thật của nó, dạy dỗ nó như một người Hồi giáo dạy con mình. Nếu làm được như thế, mới mong tìm được một chút bình an".
Chúng ta không đề cập xem người đàn ông Ấn giáo có làm được điều mà Gandhi dạy, hay lỗi lầm là của ai, bởi ai đã gây ra trước, cùng một hành động giết người, nhưng người Hồi giáo hay người Ấn giáo, ai mang tội nặng hơn.
Điều chúng ta rút ra trong câu chuyện: Muốn có bình an, người ta phải tha thứ cho nhau. Biết bao cảnh huynh đệ tương tàng, biết bao nỗi oan khuất, căm thù, đổ máu… chỉ vì lòng người không thể tha thứ.
Nhân loại rất cần bình an. Mọi người đều hiểu bình an là vốn liếng quý giá trên mọi thứ của cải. Nhưng thực tế lại quá trớ trêu, vì chính nhân loại cũng lại là thủ phạm giết chết bình an một cách tàn nhẫn.
Nếu đã lỡ giết chết bình an, dù là tìm cách lấy lại bằng sự hối hận ăn năn thật lòng, may ra cũng chỉ “tìm lại được một chút bình an” mà thôi. Hóa ra người ta giết chết bình an thì dễ nhưng tìm lại bình an thì khó vô cùng.
Cả người Palextine lẫn người Israel, lòng khoan dung, tha thứ thiếu vắng, nên sự xung đột và bạo động diễn ra như cơm bữa. Bình an chưa có một ngày nào tại Trung đông, từ khi Palestine đòi đất của mình.
Không thể tha thứ, cho nên cả hai phía, người Nga - kẻ đem quân xâm lược, và người Ukraine - kẻ nhân danh bảo vệ quyền lợi mình, từ mấy năm qua không một ngày nào, không đối diện với bạo động, chiến tranh, bom đạn và chết chóc. Cả hai phía hoàn toàn mất bình an.
Nhưng không chỉ hai quốc gia thù địch của nhau, mà còn Mỹ và châu Âu cũng bị lôi vào chiến cuộc. Nguy cơ lan rộng chiến tranh, điều mà ngay từ giây phú đầu tiên lên ngôi Giáo hoàng, Đức Lêô đã thể hiện sự lo lắng của mình.
Và trên thế giới, hết nơi này đến nơi khác, hết quốc gia này đến quốc gia khác, người ta vẫn không ngừng sợ sự bất bình an, nạn khủng bố còn đe dọa từng ngày trên đầu mình.
Hằng ngày trên thế giới vẫn còn đó biét bao cảnh tang thương vì nạn bắt cóc, nhất là bắt có làm con tin, bị giết, bị hành hạ, bị tra tấn, bị làm nhục, bị buôn bán vào nhứng nơi đầy tội các... Biết bao nhiêu cảnh tượng tàn bạo vẫn diễn ra làm cho lòng người lương thiện đau đớn, nhức buốt.
Như vậy sự chiến bại hay chiến thắng, bây giờ không chỉ dừng lại ở chỗ quốc gia này hay quốc gia kia thất trận hay thắng trận. Sự chiến bại ấy còn khủng khiếp hơn, vì đó chính là sự chiến bại của lương tâm và đạo đức con người. Bao nhiêu quyền lực, bao nhiêu hệ thống chính trị, bao nhiều tỷ người trên thế giới, lại không thể bảo vệ một số ít anh chị em của mình, dẫu họ là tù binh đi nữa. Đó là chưa kể, biết bao nhiêu người vì niềm tin vào Thượng Đế, Tin nơi Thiên Chúa, đã đành chấp nhận để người ta tước mất tự do của mình.
Đâu chỉ có thế, bình an còn trở nên hiếm hoi trong đời sống cộng đồng hoặc của từng cá nhân trong cuộc sống hằng ngày khi người với người sống bên cạnh nhau lại thiếu lòng yêu thương tha thứ.
Biết bao nhiêu cảnh trả thù, chém giết, ít là oán hận nhau, nhớ mãi lỗi lầm của nhau vẫn cứ diễn ra. Những kiểu nói "sống để bụng, chết đem theo" hay "không đội trời chung"… là những kiểu nói chất chứa sự thù oán mà không phải ít, nhưng nhiều lần chúng ta phải nghe. Tệ hơn, nếu những lời ấy lại chính là lời diễn tả tâm hồn của bạn và tôi.
Lịch sử loài người từ tạo thiên lập địa, chưa có một ngày bình an. Từ nguyên khởi, lúc mà hạnh phúc của con người còn chan chứa thứ hạnh phúc của trời cao, của thiên đàng, con người đã sát hại nhau. Lúc Cain giết chết Abel, đứa em trai của mình, chính là lúc Cain khai mạc lòng hận thù, bạo động tàn nhẫn của con người trên thế giới.
Đọc lại câu chuyện về những lần tha thứ của vua Đavit, chúng ta cảm thấy thèm khát lòng yêu thương quá. Đọc truyện vua Đavit, ta cũng cảm nhận lòng yêu thương sao mà đẹp quá đỗi. Chỉ cần một chút yêu thương, như một hạt muối bỏ vào cả một chén đầy hận thù, thế là nở ra cả một biển trời bình an. Vua Đavit đã làm được điều đó khi ông tha thứ cho người cha vợ của mình là vua Saul và đứa con trai ngỗ nghịch là Absalom. Không phải tha một lần, nhưng Đavit đã tha rất nhiều lần, vì thế biển trời bình an xung quanh ông vốn đã rộng, lại cứ nở thêm, nở thêm…
Trở lại Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Chúa không nói: "Thầy chúc bình an cho các con", nhưng lại nói: "Thầy để lại bình an cho các con, Thầy Ban bình an của Thầy cho các con", "Thầy Ban…", "Thầy để lại…" nghĩa là gì, nếu không là những kiểu nói của quà tặng, của ân huệ. Bình an chính là ơn Chúa ban nhưng không cho trần gian.
Nhưng có thật là Chúa đã ban bình an cho trần gian hay chẳng có Chúa, chẳng có bình an nào? Bình an đã được ban, vì sao thế giới cứ mãi ngụp lặn trong bất an, trong bóng tối tăm của thù hận, trong máu và sự chết của chiến tranh? Đúng là một thử thách quá lớn cho đức tin chúng ta, vì có một khoảng cách quá xa giữa Lời Chúa với thực tế của thế giới và của bản thân từng người.
Thật ra Lời Chúa không hề mâu thuẫn. Vì chỉ trong một bản văn ngắn, có đến hai lần Chúa Giêsu đòi hỏi con người phải có lòng yêu mến. Trước khi ban bình an, Chúa nói: "Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở lại nơi Người ấy". Cũng vậy, sau khi trao ban bình an, Chúa lại đòi: "Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con hãy vui mừng vì Thầy về với Cha".
Như vậy có hai điều kiện trên hết mọi điều kiện để thế giới và để lòng người có sự bình an, đó là: "YÊU MẾN THẦY"; "GIỮ LỜI THẦY". Nhờ yêu mến và giữ lời Chúa Giêsu, ta được Chúa Cha và Chúa Con ngự trong lòng mình. Vì: "Chúng Ta sẽ đến và ở lại nơi người ấy". Mà nơi nào có Chúa Cha, Chúa Con, thì cũng có Chúa Thánh Thần. Làm sao tâm hồn ta có thể hiềm thù, nổi loạn, chiến tranh, khủng bố khi lòng mình có Thiên Chúa Ba Ngôi - nguồn Bình An tuyệt đối, nguồn Bình An có sức cứu độ và đưa ta vào thế giới vô biên - ngự vào!
Lòng yêu mến mà con người cần phải có đối với Thiên Chúa, sẽ như một dòng chảy tất yếu: yêu Thiên Chúa đưa đến yêu con người. Khi có tình yêu, con người sẽ dễ tha thứ cho anh chị em của mình. Có tình yêu, có lòng tha thứ, chắc chắn sẽ không bao giờ thiếu vắng bình an. Đó là chưa kể, khi một tâm hồn bình an có Thiên Chúa ngự trị, tâm hồn ấy sẽ tràn đầy tình yêu, bất bạo động và rất khoan dung.
Bởi vậy, nếu ngày nào thế giới và mỗi con người trong thế giới chối từ Chúa, còn xua đẩy Lời của Chúa ra khỏi lòng mình, ngày ấy nhân loại vẫn còn đó nỗi chết chóc vì chiến tranh; lòng người vẫn còn đó thù hận vì mất bình an. Cá nhân này với cá nhân kia, tập thể này với tập thể kia, đảng phái này với đảng phái kia, quốc gia này với quốc gia kia… vẫn còn đó sự đối kháng, sự trả thù vì thiếu tha thứ.
Chính vì lý do thiếu vắng tình yêu và tha thứ này, ta hiểu được vì sao ơn bình an đã được Chúa ban, vẫn cứ xa vời. Ta cũng hiểu được vì sao từ thuở tạo thiên lập địa đến nay, nhân loại không có được một ngày bình an. Thế giới mãi sống trong đe dọa, lòng người cứ mãi sống trong sợ hãi, long đong.
Bạn và tôi là Kitô hữu, tức đã thuộc về Chúa Kitô. Bởi vậy, dù cho thế giới quanh mình có thế nào đi nữa, ta vẫn phải ưu tiên sống Lời Chúa và đặt lòng yêu mến Thiên Chúa của mình lên trên hết mọi sự. Vì nếu, ngay cả người Kitô hữu mà còn không yêu mến và giữ Lời Chúa, thì làm sao có thể mong ước thế giới hết chiến tranh, loài người sống bình an, người với người tha thứ cho nhau?
Bạn và tôi cũng hãy ghi nhớ: khi bình an đã bị đánh, dẫu có tìm lại, cũng chỉ có thể “tìm lại được một chút bình an” mà thôi. Tấm gương tha thứ đến mức tuyệt vời của vua Đavit là bài học quý giá cho tất cả chúng ta. Vì nếu một Đavit, nhờ lòng tha thứ, mở ra cả một biển trời bình an, mỗi chúng ta biết tha thứ cho nhau, biển trời bình an ấy được nhân lên vô cùng.
Ngoài ra, ta còn phải cầu nguyện cho ơn bình an nữa. Trước hết, xin Chúa ban cho chính lòng mình tràn ngập bình an, để sống với anh chị em xung quanh. Sau nữa là xin Chúa tiếp tục tuôn đổ bình an cho thế giới, để nhân loại biết yêu thương và tha thứ cho nhau. Xin Chúa hãy làm cho mọi người hiểu rằng, giết chết bình an thì dễ, nhưng để có bình an, khó lắm! Vì thế, nếu đã không nỗ lực để kiến tạo bình an, thì cũng đừng tìm cách chà đạp bình an của thế giới, của lòng người, nhất là đối với những người vô tội.
Dựa trên lời của Chúa Giêsu, "Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con…", chúng ta suy niệm về sự cao cả, quý trọng của ơn bình an. Nhưng để có được bình an trong cuộc đời, đòi ta phải tha thứ cho nhau. Nhưng tha thứ sẽ không thực hiện được nếu không có lòng yêu mến..
Người ta kể, tại Ấn Độ, trong thời chiến giữa người Ấn giáo và người Hồi giáo, một lần nọ, một người đàn ông Ấn giáo đến gặp Mohandas Gandhi và kể rằng: Một người Hồi giáo đã giết chết con trai của ông. Trong cơn tức giận, ông đã giết chết người đàn ông Hồi giáo để trả thù cho con mình.
Người đàn ông Ấn giáo cho biết: "Từ khi chuyện xảy ra, tôi không thể nào tìm thấy bình an". Gandhi suy nghĩ một lúc rồi nói: "Nếu đúng là sự bình an mà anh muốn, thì đây là điều cần thiết, anh phải làm. Người đàn ông đã bị giết cũng có một người con trai. Anh đã làm cho nó không có cha. Anh phải là cha của nó, nó phải là con trai của anh. Anh phải nuôi dạy nó như con riêng của mình, và phải là cha như cha thật của nó, dạy dỗ nó như một người Hồi giáo dạy con mình. Nếu làm được như thế, mới mong tìm được một chút bình an".
Chúng ta không đề cập xem người đàn ông Ấn giáo có làm được điều mà Gandhi dạy, hay lỗi lầm là của ai, bởi ai đã gây ra trước, cùng một hành động giết người, nhưng người Hồi giáo hay người Ấn giáo, ai mang tội nặng hơn.
Điều chúng ta rút ra trong câu chuyện: Muốn có bình an, người ta phải tha thứ cho nhau. Biết bao cảnh huynh đệ tương tàng, biết bao nỗi oan khuất, căm thù, đổ máu… chỉ vì lòng người không thể tha thứ.
Nhân loại rất cần bình an. Mọi người đều hiểu bình an là vốn liếng quý giá trên mọi thứ của cải. Nhưng thực tế lại quá trớ trêu, vì chính nhân loại cũng lại là thủ phạm giết chết bình an một cách tàn nhẫn.
Nếu đã lỡ giết chết bình an, dù là tìm cách lấy lại bằng sự hối hận ăn năn thật lòng, may ra cũng chỉ “tìm lại được một chút bình an” mà thôi. Hóa ra người ta giết chết bình an thì dễ nhưng tìm lại bình an thì khó vô cùng.
Cả người Palextine lẫn người Israel, lòng khoan dung, tha thứ thiếu vắng, nên sự xung đột và bạo động diễn ra như cơm bữa. Bình an chưa có một ngày nào tại Trung đông, từ khi Palestine đòi đất của mình.
Không thể tha thứ, cho nên cả hai phía, người Nga - kẻ đem quân xâm lược, và người Ukraine - kẻ nhân danh bảo vệ quyền lợi mình, từ mấy năm qua không một ngày nào, không đối diện với bạo động, chiến tranh, bom đạn và chết chóc. Cả hai phía hoàn toàn mất bình an.
Nhưng không chỉ hai quốc gia thù địch của nhau, mà còn Mỹ và châu Âu cũng bị lôi vào chiến cuộc. Nguy cơ lan rộng chiến tranh, điều mà ngay từ giây phú đầu tiên lên ngôi Giáo hoàng, Đức Lêô đã thể hiện sự lo lắng của mình.
Và trên thế giới, hết nơi này đến nơi khác, hết quốc gia này đến quốc gia khác, người ta vẫn không ngừng sợ sự bất bình an, nạn khủng bố còn đe dọa từng ngày trên đầu mình.
Hằng ngày trên thế giới vẫn còn đó biét bao cảnh tang thương vì nạn bắt cóc, nhất là bắt có làm con tin, bị giết, bị hành hạ, bị tra tấn, bị làm nhục, bị buôn bán vào nhứng nơi đầy tội các... Biết bao nhiêu cảnh tượng tàn bạo vẫn diễn ra làm cho lòng người lương thiện đau đớn, nhức buốt.
Như vậy sự chiến bại hay chiến thắng, bây giờ không chỉ dừng lại ở chỗ quốc gia này hay quốc gia kia thất trận hay thắng trận. Sự chiến bại ấy còn khủng khiếp hơn, vì đó chính là sự chiến bại của lương tâm và đạo đức con người. Bao nhiêu quyền lực, bao nhiêu hệ thống chính trị, bao nhiều tỷ người trên thế giới, lại không thể bảo vệ một số ít anh chị em của mình, dẫu họ là tù binh đi nữa. Đó là chưa kể, biết bao nhiêu người vì niềm tin vào Thượng Đế, Tin nơi Thiên Chúa, đã đành chấp nhận để người ta tước mất tự do của mình.
Đâu chỉ có thế, bình an còn trở nên hiếm hoi trong đời sống cộng đồng hoặc của từng cá nhân trong cuộc sống hằng ngày khi người với người sống bên cạnh nhau lại thiếu lòng yêu thương tha thứ.
Biết bao nhiêu cảnh trả thù, chém giết, ít là oán hận nhau, nhớ mãi lỗi lầm của nhau vẫn cứ diễn ra. Những kiểu nói "sống để bụng, chết đem theo" hay "không đội trời chung"… là những kiểu nói chất chứa sự thù oán mà không phải ít, nhưng nhiều lần chúng ta phải nghe. Tệ hơn, nếu những lời ấy lại chính là lời diễn tả tâm hồn của bạn và tôi.
Lịch sử loài người từ tạo thiên lập địa, chưa có một ngày bình an. Từ nguyên khởi, lúc mà hạnh phúc của con người còn chan chứa thứ hạnh phúc của trời cao, của thiên đàng, con người đã sát hại nhau. Lúc Cain giết chết Abel, đứa em trai của mình, chính là lúc Cain khai mạc lòng hận thù, bạo động tàn nhẫn của con người trên thế giới.
Đọc lại câu chuyện về những lần tha thứ của vua Đavit, chúng ta cảm thấy thèm khát lòng yêu thương quá. Đọc truyện vua Đavit, ta cũng cảm nhận lòng yêu thương sao mà đẹp quá đỗi. Chỉ cần một chút yêu thương, như một hạt muối bỏ vào cả một chén đầy hận thù, thế là nở ra cả một biển trời bình an. Vua Đavit đã làm được điều đó khi ông tha thứ cho người cha vợ của mình là vua Saul và đứa con trai ngỗ nghịch là Absalom. Không phải tha một lần, nhưng Đavit đã tha rất nhiều lần, vì thế biển trời bình an xung quanh ông vốn đã rộng, lại cứ nở thêm, nở thêm…
Trở lại Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Chúa không nói: "Thầy chúc bình an cho các con", nhưng lại nói: "Thầy để lại bình an cho các con, Thầy Ban bình an của Thầy cho các con", "Thầy Ban…", "Thầy để lại…" nghĩa là gì, nếu không là những kiểu nói của quà tặng, của ân huệ. Bình an chính là ơn Chúa ban nhưng không cho trần gian.
Nhưng có thật là Chúa đã ban bình an cho trần gian hay chẳng có Chúa, chẳng có bình an nào? Bình an đã được ban, vì sao thế giới cứ mãi ngụp lặn trong bất an, trong bóng tối tăm của thù hận, trong máu và sự chết của chiến tranh? Đúng là một thử thách quá lớn cho đức tin chúng ta, vì có một khoảng cách quá xa giữa Lời Chúa với thực tế của thế giới và của bản thân từng người.
Thật ra Lời Chúa không hề mâu thuẫn. Vì chỉ trong một bản văn ngắn, có đến hai lần Chúa Giêsu đòi hỏi con người phải có lòng yêu mến. Trước khi ban bình an, Chúa nói: "Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở lại nơi Người ấy". Cũng vậy, sau khi trao ban bình an, Chúa lại đòi: "Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con hãy vui mừng vì Thầy về với Cha".
Như vậy có hai điều kiện trên hết mọi điều kiện để thế giới và để lòng người có sự bình an, đó là: "YÊU MẾN THẦY"; "GIỮ LỜI THẦY". Nhờ yêu mến và giữ lời Chúa Giêsu, ta được Chúa Cha và Chúa Con ngự trong lòng mình. Vì: "Chúng Ta sẽ đến và ở lại nơi người ấy". Mà nơi nào có Chúa Cha, Chúa Con, thì cũng có Chúa Thánh Thần. Làm sao tâm hồn ta có thể hiềm thù, nổi loạn, chiến tranh, khủng bố khi lòng mình có Thiên Chúa Ba Ngôi - nguồn Bình An tuyệt đối, nguồn Bình An có sức cứu độ và đưa ta vào thế giới vô biên - ngự vào!
Lòng yêu mến mà con người cần phải có đối với Thiên Chúa, sẽ như một dòng chảy tất yếu: yêu Thiên Chúa đưa đến yêu con người. Khi có tình yêu, con người sẽ dễ tha thứ cho anh chị em của mình. Có tình yêu, có lòng tha thứ, chắc chắn sẽ không bao giờ thiếu vắng bình an. Đó là chưa kể, khi một tâm hồn bình an có Thiên Chúa ngự trị, tâm hồn ấy sẽ tràn đầy tình yêu, bất bạo động và rất khoan dung.
Bởi vậy, nếu ngày nào thế giới và mỗi con người trong thế giới chối từ Chúa, còn xua đẩy Lời của Chúa ra khỏi lòng mình, ngày ấy nhân loại vẫn còn đó nỗi chết chóc vì chiến tranh; lòng người vẫn còn đó thù hận vì mất bình an. Cá nhân này với cá nhân kia, tập thể này với tập thể kia, đảng phái này với đảng phái kia, quốc gia này với quốc gia kia… vẫn còn đó sự đối kháng, sự trả thù vì thiếu tha thứ.
Chính vì lý do thiếu vắng tình yêu và tha thứ này, ta hiểu được vì sao ơn bình an đã được Chúa ban, vẫn cứ xa vời. Ta cũng hiểu được vì sao từ thuở tạo thiên lập địa đến nay, nhân loại không có được một ngày bình an. Thế giới mãi sống trong đe dọa, lòng người cứ mãi sống trong sợ hãi, long đong.
Bạn và tôi là Kitô hữu, tức đã thuộc về Chúa Kitô. Bởi vậy, dù cho thế giới quanh mình có thế nào đi nữa, ta vẫn phải ưu tiên sống Lời Chúa và đặt lòng yêu mến Thiên Chúa của mình lên trên hết mọi sự. Vì nếu, ngay cả người Kitô hữu mà còn không yêu mến và giữ Lời Chúa, thì làm sao có thể mong ước thế giới hết chiến tranh, loài người sống bình an, người với người tha thứ cho nhau?
Bạn và tôi cũng hãy ghi nhớ: khi bình an đã bị đánh, dẫu có tìm lại, cũng chỉ có thể “tìm lại được một chút bình an” mà thôi. Tấm gương tha thứ đến mức tuyệt vời của vua Đavit là bài học quý giá cho tất cả chúng ta. Vì nếu một Đavit, nhờ lòng tha thứ, mở ra cả một biển trời bình an, mỗi chúng ta biết tha thứ cho nhau, biển trời bình an ấy được nhân lên vô cùng.
Ngoài ra, ta còn phải cầu nguyện cho ơn bình an nữa. Trước hết, xin Chúa ban cho chính lòng mình tràn ngập bình an, để sống với anh chị em xung quanh. Sau nữa là xin Chúa tiếp tục tuôn đổ bình an cho thế giới, để nhân loại biết yêu thương và tha thứ cho nhau. Xin Chúa hãy làm cho mọi người hiểu rằng, giết chết bình an thì dễ, nhưng để có bình an, khó lắm! Vì thế, nếu đã không nỗ lực để kiến tạo bình an, thì cũng đừng tìm cách chà đạp bình an của thế giới, của lòng người, nhất là đối với những người vô tội.