2.3. Định Nghĩa Của Vatican I Về Quyền Tối Thượng Tài Phán Và Ơn Bất Khả Ngộ Của Giáo Hoàng
57. Kể từ thời Trung cổ, các nhà thần học Công Giáo cho rằng thừa tác vụ của giáo hoàng là một thừa tác vụ de iure divino. Có liên quan chặt chẽ đến cách hiểu này về thừa tác vụ của giáo hoàng là các học thuyết về quyền tài phán phổ quát và ơn bất khả ngộ của Giáo hoàng. Những tín lý này có thể được tìm thấy trong giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo lâu trước Công đồng Vatican I. Ví dụ, như cuộc đối thoại Luther-Công Giáo ở Hoa Kỳ đã nêu:
“Công đồng Florence trong Sắc lệnh Liên hiệp các Giáo hội Hy Lạp và Latinh (1439) đã nêu rõ tín lý về quyền tối thượng của giáo hoàng theo những thuật ngữ gần giống với thuật ngữ của Công đồng Vatican I” (L–C US 1973, 19). Tín lý về quyền tài phán phổ quát, được phát triển trong giai đoạn hậu Công đồng Trent, có thể được coi là một trong những điều kiện tiên quyết về mặt giáo hội học của hiện tượng “chủ nghĩa quy hiệp [uniatism]” (xem bên dưới §131).
Tương tự như vậy, việc Đức Giáo Hoàng Pius IX công bố tín điều Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội vào năm 1854 đã ngụ ý việc thực hiện quyền bất khả ngộ của giáo hoàng. Tuy nhiên, các giáo lý về quyền tối thượng của quyền tài phán và ơn bất khả ngộ của giáo hoàng vẫn chưa được định nghĩa là tín điều.
58. Trong Pastor æternus, Công đồng Vatican thứ nhất (1870) đã tạo ra một tình huống mới, tuyên bố những tín lý này là tín điều. Những định nghĩa tín điều này đã chứng tỏ là một trở ngại đáng kể đối với các Ki-tô hữu khác liên quan đến giáo hoàng. “Trong khi đối với người Công Giáo, việc duy trì sự hiệp thông trong đức tin và các bí tích với giám mục Rôma được coi là một tiêu chuẩn cần thiết để được coi là Giáo hội theo nghĩa đầy đủ, nhưng đối với Chính thống giáo, cũng như đối với người Tin lành, thì chính những yêu sách lịch sử của giáo hoàng về thẩm quyền trong việc giảng dạy và cuộc sống Giáo hội đi ngược lại nhất với hình ảnh về Giáo hội được trình bày cho chúng ta trong Tân Ước và trong các tác phẩm Kitô giáo ban đầu” (O–C US 2010, 2).
59. Phù hợp với lời kêu gọi của một số nhà thần học về việc tái giảng hoặc tiếp nhận lại Công đồng Vatican I,(13) một số cuộc đối thoại thần học địa phương và không chính thức, chẳng hạn như Groupe des Dombes (1985, 82–84; cuộc đối thoại Lutheran–Công Giáo tại Hoa Kỳ (2004, 209–217), Nhóm Farfa Sabina (2009, 62–124), cuộc đối thoại Lutheran–Công Giáo tại Úc (2016, 130–134) hoặc Nhóm St Irenaeus (2018, 10.1–10.13) đã thực hiện việc đọc lại Công đồng Vatican I, mở ra những con đường mới để hiểu rõ hơn về công đồng. Cách tiếp cận chú giải này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải thích các tuyên bố mang tính tín điều của Công đồng Vatican I không phải một cách riêng lẻ, mà dưới ánh sáng của tin mừng, của toàn bộ truyền thống và trong bối cảnh lịch sử của nó. (14)
Mặc dù học thuyết về quyền tài phán phổ quát và ơn bất khả ngộ của Giáo hoàng là hai vấn đề riêng biệt, nhưng chúng vẫn sẽ được giải quyết cùng nhau trong tiểu mục này vì chúng được cùng một công đồng định nghĩa.
2.3.1. Một Phương Thức Chú Giải Vatican I
60. Vatican I nên được hiểu trong khuôn khổ bối cảnh lịch sử của nó. Nhóm Farfa Sabina (2009, 106), Groupe des Dombes (2014, 198), Nhóm St Irenaeus (2018, 10.1–10.6), và cuộc đối thoại Chính thống giáo-Công Giáo quốc tế (O-C 2023, 3.5) tất cả đều suy tư về sự kiện vào thế kỷ 19, Giáo Hội Công Giáo đã ứng phó với nhiều thách thức khác nhau. Về mặt giáo hội học, chủ nghĩa Gallicanism [Pháp quốc] đã hồi sinh khái niệm về chủ nghĩa duy công đồng [conciliarism] bằng cách nhấn mạnh vào quyền tự chủ của các Giáo hội quốc gia. Về mặt chính trị, Giáo hội bị thách thức bởi chủ nghĩa quân chủ (sự kiểm soát ngày càng tăng của nhà nước đối với Giáo hội) và bởi ảnh hưởng ngày càng tăng của chủ nghĩa tự do chống giáo sĩ. Về mặt trí tuệ, chủ nghĩa duy lý và các phát triển khoa học hiện đại đã đặt ra câu hỏi về các công thức truyền thống của đức tin.
Để phản ứng lại những thách thức này và như một biện pháp chống lại chúng, phong trào bảo thủ quá khích [ultramontane] đã cổ vũ quyền lãnh đạo của giáo hoàng và việc thành lập một giáo hội tập quyền hơn theo mô hình các chế độ chính trị đương thời về chủ quyền. Trong bối cảnh này, “phần lớn các giám mục nhìn thấy trong một ngôi giáo hoàng được tăng cường một sự bảo vệ cho quyền tự do của giáo hội và nói chung một sức mạnh cho sự hiệp nhất trước thế giới hiện đại” (Farfa 2009, 106).
61. Một yếu tố phức tạp hơn nữa là sự gián đoạn của Công đồng do hậu quả của Chiến tranh Pháp-Phổ bùng nổ vào năm 1870, góp phần gây mất cân bằng trong giáo hội học của nó: Công đồng không thể vượt ra ngoài một văn kiện giáo hội học ban đầu về giáo hoàng, và do đó đã không xử lý được sự mầu nhiệm của Giáo hội như một toàn thể (xem O-C 2023, 3.5). Vấn đề về các giám mục trong Giáo hội, nhiệm vụ và quyền lợi của họ, không được tranh luận chi tiết và được xây dựng thành học thuyết của Giáo hội cho đến Công đồng Vatican II. Vì lý do này, Nhóm Farfa Sabina tuyên bố: “Quy tắc giải thích cho rằng các kết quả của Công đồng Vatican I phải được đọc dưới góc độ các tuyên bố của Công đồng Vatican II phù hợp với các sự kiện lịch sử này. Theo cách này, nội dung của những gì đã hoàn thành vào năm 1870 được bảo tồn trong khi đồng thời được xem xét trong bối cảnh phức tạp hơn” (Farfa 2009, 116).
b. Phân biệt giữa ý định và cách diễn đạt
62. Một nguyên tắc giải thích quan trọng khác là giải thích Công đồng Vatican I dưới góc độ các ý định của công đồng. Như Nhóm Thánh Irenaeus tuyên bố: “Một giải thích về tín điều hướng sự chú ý đến sự kiện người ta phải phân biệt giữa công thức của một tín điều (‘điều được nói ra’) và ý định của việc tuyên bố (‘điều được ngụ ý’)” (Thánh Irenaeus 2018, 3). Công đồng mong muốn các quyết định của mình được hiểu “theo niềm tin cổ xưa và liên tục của Giáo hội hoàn cầu” (Pastor æternus [PA] Giới thiệu, DH 3052), vì nó “được chứa trong các biên bản của các Công đồng chung và trong các Điều luật thánh thiêng” (PA III, DH 3059), đặc biệt là những điều khoản “trong đó, Giáo hội phương Tây và phương Đông đã hiệp nhất trong đức tin và tình yêu” (PAIV, DH 3065). Do đó, Nhóm Farfa Sabina kêu gọi việc phân biệt giữa enuntiabile [những điều cói thể nói ra], được điều kiện hóa bởi một bối cảnh cụ thể và ngôn ngữ, và res [sự việc] của các định nghĩa tín điều của Công đồng Vatican I:
“Chính định nghĩa và những gì nó định nghĩa là enuntiabile, nhưng hành vi đức tin không hướng đến nó, mà hướng đến những gì nó có ý định, tức là ý nghĩa của nó, là res mà nó có ý muốn nói” (Farfa 2009, 178). “Nếu có sự phân biệt như vậy, thì ý nghĩa của tín điều bất khả ngộ và tính tối thượng của quyền tài phán có thể được thiết lập một cách khách quan như sau: (1) giúp bảo đảm sự hiệp nhất của Giáo hội trong các vấn đề nền tảng của đức tin Kitô giáo trong những trường hợp đức tin bị đe dọa; (2) bảo đảm quyền tự do công bố Tin mừng và quyền tự do đề cử vào các chức vụ giáo hội trong mọi hệ thống xã hội” (id., 179).
63. Trên cơ sở sự phân biệt này, Nhóm Farfa Sabina đã có thể kết luận: “Kết quả của các cuộc điều tra lịch sử mới hơn hiện nay cho phép người ta phân biệt ý nghĩa thực sự có chủ đích của Công đồng Vatican I với cách diễn đạt trong hoàn cảnh thịnh hành vào thời điểm đó. Tuy nhiên, chính bộ trang phục này, cách thức xây dựng học thuyết này đã ủng hộ cách giải thích duy tối đa đang thịnh hành của cả hai tín điều trong quá khứ. Công đồng này không có ý định phủ nhận hoặc bác bỏ truyền thống của thiên niên kỷ đầu tiên, cụ thể: giáo hội như một mạng lưới các giáo hội thông đạt lẫn nhau. Mặc dù chắc chắn có thể còn quá sớm để tuyên bố rằng những khác biệt liên quan đến thừa tác vụ giáo hoàng đã được khắc phục, nhưng quan điểm mới về Công đồng Vatican I cho phép những người theo Luther và những người khác có thể đưa ra đánh giá mới về các định nghĩa của công đồng” (id., 259).
c. Sự khác biệt giữa bản văn và cách giải thích nó
64. Ngoài ra, việc giải thích tiếp theo của các nghị quyết của huấn quyền Công Giáo có ý nghĩa quan trọng nhất để hiểu đầy đủ về giáo huấn của Công đồng. Thật vậy, “cuộc điều tra lịch sử dẫn đến việc người ta nhận thấy rằng nhiều cách trong đó Công đồng Vatican I được tiếp nhận, đặc biệt là những cách duy tối đa [maximalist], không trung thành với các định nghĩa của công đồng […] Chỉ khi người ta ý thức được những khác biệt này giữa ý định ban đầu và sự tiếp nhận sau đó, họ mới có thể vượt qua được những thái độ biện hộ sau đó” (Thánh Irenaeus 2018, 10.10).
65. Về mặt lịch sử, “Phản hồi của các giám mục Đức đối với Công văn luân lưu của Bismarck” năm 1875 có tầm quan trọng sống còn, bởi vì nó được Đức Piô IX, vị giáo hoàng đã triệu tập Công đồng, tiếp nhận như là cách giải thích xác thực của nó. Theo Phản hồi này, quyền tối thượng tài phán của giáo hoàng không làm giảm quyền hạn thông thường của các giám mục, bởi vì chức giám mục được dựa trên “cùng một định chế thần thiêng” như chức vụ giáo hoàng. Về tính bất khả ngộ, Phản hồi chỉ ra rằng nó bao gồm "chính xác cùng một phạm vi như quyền giáo huấn bất khả ngộ của Giáo hội nói chung và bị ràng buộc với nội dung của Thánh Kinh và truyền thống và với các quyết định về tín lý mà huấn quyền đã thông qua" (xem Farfa 2009, 104; Thánh Irenaeus 2018, 10.8; O-C 2023, 3.6).
66. Nhưng trên hết, Công đồng Vatican I chỉ có thể được tiếp nhận một cách đúng đắn dưới ánh sáng giáo huấn của Công đồng Vatican II. Công đồng Vatican II đã giải quyết các câu hỏi vẫn còn bỏ ngỏ tại Công đồng Vatican I, cụ thể là cách hiểu về chức giám mục và cách thức nó liên quan đến thừa tác vụ giáo hoàng.
Một số sự dè dặt, được thiểu số bày tỏ tại Công đồng Vatican I, đã được xem xét và đưa vào các tuyên bố về quyền tối thượng của giáo hoàng. Về tính bất khả ngộ, Hiến chế về Mặc khải Thiên Chúa, Dei verbum, khẳng định rằng “chức vụ giảng dạy sống động của Giáo hội […] không cao hơn lời của Thiên Chúa, nhưng phục vụ lời đó, chỉ giảng dạy những gì đã được truyền lại” (DV 10), và Hiến chế về Giáo hội, Lumen gentium, chủ trương rằng chính “toàn thể tín hữu [không] sai lầm trong các vấn đề đức tin” (LG 12). Trong giáo huấn về tính bí tích của chức giám mục (LG 21), Công đồng Vatican II đã tái lập mối liên hệ giữa các quyền bí tích và quyền tài phán được ban qua việc phong chức: (15) “Điều này có nghĩa là một giám mục sở hữu thẩm quyền do việc phong chức của mình mà không được ủy quyền tài phán bởi giám mục Rôma. Tuy nhiên, việc thực thi thẩm quyền này cuối cùng được kiểm soát bởi thẩm quyền tối cao của Giáo hội.” (L– C US 2004, 218). Sự kiện cả quyền hạn về trật tự và quyền tài phán đều bắt nguồn từ việc phong chức phản ảnh sự kiện Chúa Kitô là nguồn sức mạnh và là mô hình cho việc thực thi thẩm quyền trong Giáo hội. Thật vậy, “giám mục nhận được cả quyền bí tích và quyền mục vụ trực tiếp từ Chúa Kitô thông qua việc phong chức và tấn phong giám mục” (Farfa 2009, 111). Trên cơ sở này, Hiến chế Lumen gentium nhấn mạnh tầm quan trọng của tính hợp đoàn giám mục, bắt nguồn từ “sự thiết lập và lệnh truyền của Chúa Kitô là phải quan tâm đến toàn thể Giáo hội” (LG 23, cũng xem LG 22 và 25). Khi làm như vậy, “thần học của Công đồng Vatican II đã phát triển giáo huấn của Công đồng Vatican I, đưa ra một lời giải thích cân bằng hơn về mối quan hệ giữa giáo hoàng với các giám mục và giữa các giám mục với dân Chúa. Giám mục Rôma là người đứng đầu hợp đoàn giám mục, những người chia sẻ trách nhiệm của mình đối với giáo hội hoàn vũ. Thẩm quyền của ngài mang tính mục vụ ngay cả khi mang tính tài phán về hình thức. Nó luôn phải được hiểu trong bối tính hợp đoàn của nó” (L– C US 1973, 20). Khái niệm công đồng về tính hợp đoàn đã được phát triển hơn nữa trong nguyên tắc rộng hơn về tính đồng nghị, đặc biệt là trong giáo huấn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô: Thượng hội đồng giám mục, luôn hành động “cum Petro et sub Petro [cùng Phê-rô và dưới Phê-rô]” trong hierarchica communio [hiệp thông có phẩm trật] (xem LG 21–22), ở bình diện Giáo hội hoàn vũ, là “một biểu thức của tính hợp đoàn giám mục trong một Giáo hội hoàn toàn đồng nghị”.(16)
Còn tiếp
___________________________________________
(13). Xem, ví dụ, Joseph Ratzinger: “Cũng như trong Kinh thánh có hiện tượng tái giảng […], thì các tín điều và tuyên bố riêng lẻ của các Công đồng cũng không được hiểu là biệt lập, mà đúng hơn trong diễn trình tái giảng tín điều-lịch sử trong sự thống nhất này của lịch sử đức tin. […] Rõ ràng là nhận thức này có ý nghĩa nền tảng đối với việc giải thích Công đồng Vatican I”, (Joseph Ratzinger, Das neue Volk Gottes: Entwürfe zur Ekklesiologie, ấn bản lần thứ 2 [Düsseldorf: Patmos, 1970], 140–141); xem thêm Walter Kasper: “Theo quan điểm Công Giáo, sự tiếp nhận lại như vậy không đặt ra câu hỏi về tính hợp lệ của các định nghĩa của Công đồng, mà liên quan đến các diễn giải của Công đồng. Vì sự tiếp nhận không có nghĩa là sự chấp nhận thụ động tự động, mà là một quá trình tiếp nhận sống động và sáng tạo,” “Petrine Ministry and Synodality [Thừa tác vụ Phê-rô và tính Đồng nghị]”, The Jurist 66, 1 (2006), 302. Xem thêm Yves Congar, Diversités et communion. Dossier historique et conclusion théologique [Các đa dạng và hiệp thông. Hồ sơ lịch sử và kết luận thần học], Paris, Éditions du Cerf, 1982, tr. 244–257. 2014, 196–206),
(14). Xem Walter Kasper, “Catholic Hermeneutics of the Dogmas of the First Vatican Council”, The Petrine Ministry. Catholics and Orthodox in Dialogue, Walter Kasper (biên tập), New York, The Newman Press, 2006.
(15). Xem đặc biệt Nota explicativa prævia được công bố dưới dạng phụ lục của Lumen gentium.
(16). Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Diễn văn đánh dấu kỷ niệm 50 năm thành lập Thượng hội đồng giám mục, ngày 17 tháng 10 năm 2015.