1. Bản đồ hiển thị các quốc gia nơi các tín hữu Kitô không còn chiếm đa số
Dữ liệu mới từ Trung tâm nghiên cứu Pew cho thấy số lượng quốc gia có đa số người theo Kitô giáo đã giảm trong một thập niên qua.
Trong khi hầu hết các quốc gia vẫn có đa số dân theo Kitô giáo - với hơn một nửa dân số ở những quốc gia đó tự nhận là người theo Kitô giáo - thì đã có sự suy giảm trong thập niên qua - khi Vương quốc Anh, Pháp, Uruguay và Úc không còn nằm trong nhóm này nữa. Thậm chí, với đà tăng trưởng mạnh mẽ của dân số Hồi Giáo, trong số 4 quốc gia nói trên Anh, Pháp, và Úc có thể trở thành các quốc gia Hồi Giáo trong vài thập niên nữa.
Trước đây, vào năm 2010, tỷ lệ người theo Kitô giáo ở 4 quốc gia này lần lượt là 49%, 46%, 44% và 47%.
Uruguay là quốc gia duy nhất ở Mỹ Châu không có đa số dân theo Kitô giáo vào năm 2020, mặc dù Guiana thuộc Pháp là một tỉnh hải ngoại của Pháp nằm trên bờ biển đông bắc Nam Mỹ có đa số dân theo Kitô giáo.
Trung tâm nghiên cứu Pew đưa tin, hàng triệu người theo Kitô giáo trên toàn cầu đã bỏ đạo trong những năm gần đây, khiến số lượng người theo Kitô giáo ở nhiều quốc gia giảm trong thập niên qua. Một lý do khác là sinh suất của các Kitô Hữu quá nhỏ so với các nhóm khác, cụ thể là Hồi Giáo.
Những phát hiện của trung tâm cũng cho thấy sự gia tăng về số lượng các quốc gia có đa số dân cư không theo tôn giáo nào - với 10 quốc gia thuộc danh mục này vào năm 2020, nhiều hơn ba quốc gia so với năm 2010.
Nhìn chung, dữ liệu cho thấy 120 trong số 201 quốc gia và vùng lãnh thổ được nghiên cứu có đa số dân theo Kitô giáo vào năm 2020, ít hơn bốn quốc gia so với năm 2010.
David Voas, giáo sư khoa học xã hội tại Đại học Luân Đôn, phát biểu với Newsweek rằng lý do Anh, Pháp, Uruguay và Úc không còn đa số theo Kitô giáo là do “quá trình ly khai tôn giáo kéo dài và dần dần đã diễn ra trong nhiều thập niên”.
“ Khi những người lớn tuổi và sùng đạo hơn qua đời, họ sẽ được thay thế trong dân số bởi những người trẻ tuổi và ít sùng đạo hơn”.
Voas cho biết cũng có “một số người bỏ đạo khi trưởng thành”, nhưng thông thường sự thay đổi lớn nhất xảy ra “giữa các thế hệ chứ không phải trong cùng một thế hệ”.
Nói rộng hơn, nhiều quốc gia có đa số dân theo Kitô giáo đã chứng kiến “sự suy giảm về tỷ lệ dân số tự nhận mình là người theo Kitô giáo”, Paul Seabright, giáo sư kinh tế tại Đại học Toulouse Capitole, Pháp, phát biểu với Newsweek.
Seabright cho biết một nguyên nhân khác là sự gia tăng tình trạng không có con, có hai tác động - thứ nhất, ít trẻ em được sinh ra từ cha mẹ theo Kitô giáo hơn và thứ hai, các cặp vợ chồng không có con và những người trẻ tuổi độc thân ít có khả năng tham gia các nhà thờ Kitô Giáo hơn so với các cặp vợ chồng có con.
Ông nói thêm rằng có thể có những biến thể từ xu hướng này vì “một số người trẻ hiện chưa có con, đặc biệt là Thế hệ Z, có khả năng sẽ trở nên sùng đạo hơn khi họ có con”.
Ông cho biết công nghệ cũng có thể có tác động, vì những người còn là thanh thiếu niên khi iPhone ra mắt vào năm 2007 giờ sẽ bước vào độ tuổi 30 và “mới bắt đầu vật lộn với những thách thức của việc lập gia đình”.
Ông cho biết: “Điều này sẽ giúp nhiều người thoát khỏi thế giới ảo để hòa nhập vào cộng đồng thực tế hơn”.
Một yếu tố khác, theo Seabright, là “ở nhiều quốc gia, các nhà thờ Kitô giáo gắn liền với giới cầm quyền bảo thủ, điều này dần làm xói mòn tính chính danh của họ, đặc biệt là ở những quốc gia mà Giáo hội ủng hộ các chế độ cực kỳ bảo thủ hoặc độc tài. Ví dụ bao gồm Tây Ban Nha và Chí Lợi, nhưng cũng có ở Ireland, Anh và Đức.”
Ngoài ra, “những vụ tai tiếng về lạm dụng tình dục, thể chất và tài chính đã dẫn đến một số lượng lớn người rời khỏi Giáo Hội, ví dụ như ở Đức, Pháp, Ái Nhĩ Lan, Hoa Kỳ”
Seabright cảnh báo rằng tội lỗi lạm dụng tình dục trong Giáo Hội đã bị khuếch đại bởi các thế lực chống Giáo Hội Công Giáo và cả một số Giám Mục Đức, những người thường được gắn mác là “lạm dụng lạm dụng”. Tức là họ lạm dụng tình trạng lạm dụng như một chiêu bài cổ suý cho các chương trình nghị sự cấp tiến của họ. Seabright cho biết Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã rất đúng và chính xác khi nói rằng “tội lỗi lạm dụng tình dục xảy ra chủ yếu trong bối cảnh gia đình.”
Source:Newsweek
2. Nhật ký trừ tà #354: Làm im lặng kẻ tố cáo vĩ đại*
Đức Ông Stephen Rossetti, Nhà Trừ Tà của giáo phận Syracuse, phó giáo sư nghiên cứu tại Đại học Công Giáo Hoa Kỳ vừa có bài viết nhan đề “Exorcist Diary #354: Silencing the Great Accuser*”, nghĩa là “Nhật ký trừ tà #354: Làm im lặng kẻ tố cáo vĩ đại*”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.
Là con người sau sự sa ngã của A-đam và Ê-va, tất cả chúng ta đều trải qua những khiếm khuyết còn sót lại của nhân tính sa ngã. Ví dụ, tất cả chúng ta đều bị bệnh; chúng ta bị những đam mê rối loạn; trí tuệ chúng ta bị lu mờ; và trạng thái tinh thần của chúng ta không còn hoàn toàn khỏe mạnh và thánh thiện nữa. Điều này không hề xảy ra trước khi A-đam và Ê-va sa ngã.
Một hậu quả tiêu cực của sự Sa Ngã là một cảm nhận rối loạn về bản thân: chúng ta dễ bị tổn thương bởi lòng tự trọng thấp, hoặc biểu hiện dường như trái ngược của nó là tính tự luyến (thực ra chỉ là một lớp vỏ bọc giả tạo che đậy hình ảnh bản thân đã bị tổn thương này). Satan biết rõ sự yếu đuối của chúng ta. Hắn sẽ lợi dụng nó bất cứ khi nào có thể. Lũ tay sai của hắn âm thầm tấn công chúng ta bằng những suy nghĩ tự hạ thấp bản thân, hy vọng dẫn chúng ta đến một trong những trạng thái ưa thích của hắn: là tuyệt vọng. Hắn là “kẻ tố cáo lớn” (Khải Huyền 12:10).
Làm sao chúng ta biết được những lời tự vấn tiêu cực trong đầu mình đang được tiếp sức bởi Kẻ Tố Cáo Vĩ Đại (tức là những ám ảnh ma quỷ)? Một số dấu hiệu rõ ràng là: những suy nghĩ tiêu cực xuất hiện khá đột ngột; chúng dữ dội một cách bất thường; chúng phóng đại thực tế; chúng cám dỗ tâm hồn đến tuyệt vọng. Một số hoặc tất cả chúng có thể tan biến khi được đáp lại bằng lời cầu nguyện.
Sau đây là ba bước sẽ giúp ích nếu những suy nghĩ trong đầu bạn đang bị Satan phóng đại, tức là chúng là nỗi ám ảnh của ma quỷ:
Thứ nhất. Nhận ra sự hiện diện của Satan và “loại bỏ” những suy nghĩ tiêu cực mạnh mẽ này. Điều quan trọng là phải nhận ra rằng những suy nghĩ dày vò này không phải của bạn; chúng đến từ Satan.
Thứ hai. Hãy thẳng thắn từ chối chúng, tốt nhất là nói to, nói ba chữ R: “Nhân danh Chúa Giêsu, tôi từ chối chúng; tôi khiển trách chúng; tôi từ bỏ chúng; và tôi đuổi chúng ra.” Bạn có thẩm quyền đối với cơ thể và tâm trí của mình, vậy hãy ra lệnh cho Satan rời đi!
Thứ ba. Hãy chào đón Thiên Chúa, Đấng yêu thương và tha thứ cho bạn. Hãy thưa: “Lạy Chúa Giêsu, con là kẻ tội lỗi, nhưng Chúa yêu thương con, Chúa tha thứ cho con, Chúa ban cho con sự bình an của Chúa.”
Điều nguy hiểm nhất của những ám ảnh ma quỷ là Ác Quỷ ẩn mình nên người ta không nhận ra nguồn gốc tội lỗi của mình. Người ta có thể tin rằng mình có khiếm khuyết khủng khiếp và sẽ mãi mãi bị dày vò. Đáng buồn thay, tôi tin rằng không ít linh hồn đã rơi vào cái bẫy này và bị cám dỗ kết liễu cuộc đời. Khi linh hồn nhận ra và chấp nhận hành động của Satan, rồi từ chối và trục xuất hắn, những đau khổ của Satan thường giảm bớt, nếu không muốn nói là hoàn toàn im lặng.
Linh hồn nên thường xuyên đặt nền tảng trên những chân lý căn bản của Kitô giáo: Satan là bụi đất. Chúa Giêsu là Chúa. Chúa Giêsu yêu thương tôi và tha thứ cho tôi. Thiên Chúa cho phép Satan cám dỗ và quấy nhiễu tôi trong cuộc đời này, giống như chính Chúa Giêsu đã chịu đau khổ và chết. Nhưng Thiên Chúa sẽ ban cho tôi sức mạnh để kiên trì. Những cám dỗ này được phép xảy ra để tôi được thánh hóa - tôi được chia sẻ những đau khổ của Chúa Kitô.
Tôi rất tiếc khi bất kỳ ai trong số anh chị em phải chịu đựng những đau khổ về tinh thần. Đáng buồn thay, đó là hậu quả của tội nguyên tổ, sau đó bị Satan lợi dụng và khuếch đại. Nhưng Chúa đã mang lại ân sủng từ đau khổ, cũng như Ngài đã mang lại sự sống mới của sự phục sinh từ thập giá của Chúa Giêsu. Hãy tiếp tục cuộc chiến đấu tốt đẹp! Thế giới cần các bạn; đạo quân của Chúa cần anh chị em. Anh chị em có giá trị vô hạn trong mắt Chúa, và đó là tất cả những gì quan trọng.
Source:Catholic Exorcism
3. Đức Giáo Hoàng: Người di cư là “nhân chứng của hy vọng” trong một thế giới bị tàn phá
Trong Sứ điệp nhân Ngày Thế giới Di dân và Tị nạn lần thứ 111, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV nhấn mạnh đến chứng tá quan trọng mà những người di cư và tị nạn Công Giáo có thể mang đến trong một thế giới bị ảnh hưởng bởi xung đột và bất bình đẳng khi tiếp tục hy vọng và tìm kiếm một tương lai tốt đẹp và hòa bình hơn.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV nhấn mạnh cách thức người di cư và người tị nạn có thể trở thành chứng nhân của hy vọng và sự kiên trì trong nghịch cảnh một cách đặc biệt và kêu gọi một tương lai hòa bình và tôn trọng nhân phẩm con người, trong Thông điệp nhân Ngày Thế giới Người di cư và Người tị nạn lần thứ 111, được công bố vào thứ sáu, ngày 25 tháng 7.
Năm nay, thay vì được tổ chức vào ngày 24 tháng 9 như thường lệ, Ngày Thế giới Di dân và Truyền giáo sẽ trùng với Năm Thánh Di dân và Truyền giáo, diễn ra vào ngày 4 và 5 tháng 10. Sự kiện thường niên này khuyến khích các tín hữu thể hiện sự ủng hộ và gần gũi với hàng triệu người buộc phải rời bỏ nhà cửa và quê hương. Theo Liên Hiệp Quốc, vào cuối năm 2024, khoảng 123,4 triệu người trên toàn thế giới đã phải di dời do bị đàn áp, xung đột, bạo lực hoặc các vấn đề khác.
Mong muốn hòa bình là điều cần thiết cho nhân loại
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV bắt đầu Thông điệp của mình bằng cách nhấn mạnh rằng thế giới đang “phải đối mặt với những kịch bản đáng sợ và khả năng tàn phá toàn cầu”.
Ngài giải thích: “Viễn cảnh về một cuộc chạy đua vũ trang mới và sự phát triển của các loại vũ khí mới, bao gồm vũ khí hạt nhân, việc thiếu cân nhắc đến những tác hại của cuộc khủng hoảng khí hậu đang diễn ra và tác động của bất bình đẳng kinh tế sâu sắc khiến những thách thức của hiện tại và tương lai ngày càng trở nên khó khăn hơn”, đồng thời cho biết thêm rằng những vấn đề này đã buộc hàng triệu người phải rời bỏ quê hương của họ.
Ngài cũng chỉ ra rằng “xu hướng phổ biến” khi nhìn vào “lợi ích của các cộng đồng hạn chế” gây ra mối đe dọa đối với việc chia sẻ “trách nhiệm, hợp tác đa phương, theo đuổi lợi ích chung và đoàn kết toàn cầu”.
Đối với Đức Giáo Hoàng Lêô, “điều quan trọng là phải có một khát vọng ngày càng lớn mạnh trong lòng mọi người về một tương lai hòa bình và tôn trọng phẩm giá của tất cả mọi người”. Ngài nhấn mạnh rằng “một tương lai như vậy là thiết yếu cho kế hoạch của Thiên Chúa dành cho nhân loại và toàn thể tạo vật”, trích dẫn những đoạn trong sách Zechariah trong Kinh Thánh, nhấn mạnh rằng, với tư cách là Kitô hữu, “chúng ta tin tưởng và hy vọng vào sự thành tựu trọn vẹn của kế hoạch đó, vì Chúa luôn trung tín với những lời hứa của Ngài”.
Người di cư và người tị nạn, những nhân chứng của hy vọng qua câu chuyện của họ
Đức Giáo Hoàng giải thích rằng người di cư và người tị nạn do đó có một vai trò quan trọng trong việc thể hiện niềm hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn. Đối với Giáo Hội Công Giáo, “nhân đức hy vọng đáp lại khát vọng hạnh phúc mà Thiên Chúa đã đặt để trong trái tim mỗi người nam nữ”; và sự tìm kiếm này “chắc chắn là một trong những động lực chính” của người di cư, người tị nạn và người di tản, biến họ thành “những sứ giả” và “những chứng nhân đặc ân của hy vọng”.
“Thật vậy, họ thể hiện điều này hàng ngày thông qua khả năng phục hồi và niềm tin vào Chúa, khi họ đối mặt với nghịch cảnh trong khi tìm kiếm một tương lai mà họ thoáng thấy rằng sự phát triển toàn diện của con người và hạnh phúc là điều có thể”, ngài nói, khi so sánh với kinh nghiệm của người dân Israel được mô tả trong Kinh thánh.
“ Trong một thế giới tăm tối bởi chiến tranh và bất công, ngay cả khi mọi thứ dường như đã mất, lòng dũng cảm và sự kiên trì của họ là minh chứng anh hùng cho một đức tin nhìn xa hơn những gì mắt chúng ta có thể thấy và cho họ sức mạnh để thách thức cái chết trên nhiều tuyến đường di cư đương đại”.
Tầm quan trọng của việc chào đón người di cư
Đồng thời, Đức Giáo Hoàng Lêô giải thích rằng các cộng đồng chào đón người di cư và người tị nạn cũng có thể là “một chứng nhân sống động cho hy vọng” khi họ thể hiện “lời hứa về một hiện tại và tương lai, nơi mà phẩm giá của tất cả mọi người là con cái của Thiên Chúa được công nhận”.
“Theo cách này, người di cư và người tị nạn được công nhận là anh chị em, là một phần của gia đình mà họ có thể thể hiện tài năng của mình và tham gia đầy đủ vào đời sống cộng đồng”, ngài nói.
Người di cư và người tị nạn Công Giáo có thể hồi sinh Giáo hội
Trên bình diện tâm linh, Đức Giáo Hoàng Lêô nhấn mạnh rằng người di cư và người tị nạn cũng nhắc nhở Giáo hội “về chiều kích hành hương của mình, luôn hành trình hướng về quê hương cuối cùng, được nâng đỡ bởi niềm hy vọng, một nhân đức đối thần”. Ngài khuyến khích Giáo hội và các thành viên hãy là “dân Thiên Chúa đang hành trình hướng về quê hương thiên quốc” và tránh xa “cám dỗ của sự ‘định cư’” và trở thành “của thế gian”.
Về vấn đề này, Đức Giáo Hoàng tin rằng những người di cư và tị nạn Công Giáo có sứ mệnh đặc biệt là trở thành “những nhà truyền giáo hy vọng tại các quốc gia chào đón họ, mở ra những con đường đức tin mới ở những nơi sứ điệp của Chúa Giêsu Kitô chưa đến hoặc khởi xướng đối thoại liên tôn dựa trên cuộc sống hàng ngày và tìm kiếm các giá trị chung”.
“Đây là một missio migrantium đích thực, một sứ mệnh do người di cư thực hiện, trong đó cần phải bảo đảm sự chuẩn bị đầy đủ và hỗ trợ liên tục thông qua sự hợp tác liên giáo hội hiệu quả”, ngài nói.
“Với lòng nhiệt thành và sức sống thiêng liêng của họ, họ có thể giúp hồi sinh các cộng đồng giáo hội đang trở nên cứng nhắc và trì trệ, nơi mà sự sa mạc hóa thiêng liêng đang diễn ra với tốc độ đáng báo động”, ngài nói. “Vì vậy, sự hiện diện của họ nên được nhìn nhận và trân trọng như một phước lành thiêng liêng đích thực, một cơ hội để mở lòng đón nhận ân sủng của Thiên Chúa, Đấng ban năng lượng và hy vọng mới cho Giáo hội của Người”.
Source:Vatican News
4. Tổng giám mục York của Anh Giáo đưa ra tuyên bố về Gaza trong tình hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo
Tổng giám mục York Stephen Cottrell đã đưa ra tuyên bố sau đây về tình hình ở Gaza vào ngày 27 tháng 7.
Mỗi ngày trôi qua ở Gaza, bạo lực, nạn đói và sự phi nhân tính mà chính phủ Israel gây ra cho dân thường ngày càng trở nên đồi trụy và vô lương tâm. Nhân danh Chúa, tôi lên án hành động tàn bạo này, xâm phạm mạng sống và nhân phẩm con người. Đây là một vết nhơ trong lương tâm cộng đồng quốc tế, và là một sự vi phạm trắng trợn luật nhân đạo quốc tế.
Tuyên bố tuần này của Anh và 27 quốc gia khác lên án việc từ chối viện trợ và hành vi giết hại dân thường vô nhân đạo tại các trạm cứu trợ là một dấu hiệu quan trọng - dù đã quá trễ từ lâu - cho thấy quyết tâm ngày càng tăng của cộng đồng quốc tế nhằm chấm dứt cuộc chiến này. Tuy nhiên, mặc dù nhóm này đã tuyên bố sẵn sàng hành động tiếp, nhưng không còn thời gian để chờ đợi. Cần phải hành động ngay bây giờ để chấm dứt cuộc tấn công đang diễn ra vào Gaza, chấm dứt việc xây dựng thị trấn và bạo lực của người định cư Do Thái ở Bờ Tây, đồng thời bảo đảm đàm phán cho một nền hòa bình lâu dài và công bằng.
Lời cầu nguyện của tôi vẫn hướng về cộng đồng Kitô hữu kiên cường và đau khổ tại Lãnh thổ Palestine bị tạm chiếm, đặc biệt là ở Gaza, sau vụ tấn công đẫm máu gần đây vào Nhà thờ Công Giáo Thánh Gia. Tôi bày tỏ tình đoàn kết mục vụ với các Thượng phụ Latinh và Hy Lạp tại Giêrusalem, và cảm tạ chuyến viếng thăm gần đây của các ngài đến Gaza. Không có lý do gì để biện minh cho việc ném bom các địa điểm thờ phượng, nơi những người tuyệt vọng đang trú ẩn, hay các bệnh viện, nơi những người bệnh và người bị thương đang được chăm sóc. Tôi xin lặp lại lời của Đức Giáo Hoàng Lêô XIV và nói rõ rằng hành động man rợ này phải chấm dứt.
Cùng với các anh chị em giám mục trong Giáo hội Anh, tôi đã nhiều lần lên án các cuộc tấn công kinh hoàng của Hamas vào ngày 7 tháng 10, và tôi tiếp tục kêu gọi trả tự do cho những người vẫn đang bị giam giữ một cách tàn bạo. Chúng tôi lên án mọi cuộc tấn công nhắm vào người vô tội. Nhưng như chúng tôi đã nói vào tháng 5 năm nay, cuộc chiến này giờ đây là một cuộc xâm lược - đó là một tội lỗi nghiêm trọng và nó phải chấm dứt.
Tuần trước, Đức Tổng Giám Mục Anh giáo tại Giêrusalem, Đức Cha Hosam Naoum, đã có bài phát biểu hùng hồn tại Thượng Hội đồng Giáo hội Anh giáo ở York. Tôi ủng hộ Đức Tổng Giám Mục Hosam trong việc kêu gọi một lệnh ngừng bắn ngay lập tức và vĩnh viễn, trả tự do cho tất cả các con tin và tù nhân, và tái thiết Gaza. Tôi ủng hộ ngài trong việc bác bỏ bất kỳ chính sách nào có thể dẫn đến việc thanh trừng sắc tộc người Palestine khỏi Gaza. Nhân danh Chúa Giêsu Kitô, tôi khuyến khích các giáo phận và giáo xứ tiếp tục cầu nguyện cho các chị em Anh giáo Palestine và tất cả các cộng đồng Kitô giáo khác – và cho an ninh, tự do và phẩm giá của người Palestine, người Israel và tất cả các dân tộc trong khu vực.
Stephen Cottrell, tổng giám mục York
Source:Episcopal new sservice