Bài của Adrian Walker

“Ngay cả khi là một thực tại thuộc về trật tự tự nhiên, sự kết hợp tình dục là một loại hành vi phụng vụ kết hợp... sự tự chiếm hữu và tự hy sinh, trong một cử chỉ tương tự như Bí tích Thánh Thể.”

Khi những người Pharisiêu cố gắng lôi kéo Người vào một cuộc tranh luận gay gắt về các yếu tố kỹ thuật của luật ly hôn (x. Mt 19:3), Chúa Kitô đáp lại bằng cách nhắc lại ý định nguyên thủy của Đấng Tạo Hóa về hôn nhân. Người nhắc nhở những người đối thoại rằng mối dây hôn nhân kết hợp người nam và người nữ trong sự hiệp thông độc chiếm trọn đời không phải là một định chế thuần túy của con người, càng không phải là một món đồ chơi dễ uốn nắn theo tính thất thường của con người, nhưng đã được chính Thiên Chúa tạo dựng ngay từ đầu như một chứng ước lâu dài cho tính duy nhất tuyệt đối của Người. Đó là lý do tại sao “người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ nên một xương một thịt, đến nỗi họ không còn là hai nữa mà là một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ!” (Mt 19:6). (1)

Như vậy, theo Mt 19, tính bất khả tiêu của hôn nhân không chỉ là một chủ đề để tranh luận uyên bác giữa các luật sư và các nhà luân lý. Trước hết, nó là sự mặc khải về ý định ban đầu của Đấng Tạo Hóa đối với nam và nữ, mô hình nguyên mẫu mà dưới ánh sáng của nó, chúng ta bắt đầu nhìn thấy cơ thể khác biệt về mặt giới tính như nó thực sự là: không phải là thứ mờ đục, trung hòa, trì trệ và phi luân, như một công cụ trung lập để chúng ta tự phát biểu một cách tùy tiện, nhưng là bí tích của một ý định thần thiêng quảng đại khôn lường. Tri nhận và khẳng định ý định này không phải là phản bội giới tính của chúng ta, mà là giải phóng nó thành sự thật nguyên thủy của nó, sự thật tỏa sáng rực rỡ nhất dưới ánh sáng của điều Đức Gioan Phaolô II gọi là “kế hoạch của Thiên Chúa dành cho hôn nhân và gia đình”. (2)

Ý định ban đầu của Thiên Chúa đối với tình dục được ghi vào chính khuôn mẫu của cơ thể nam và nữ của chúng ta. Chúng ta có thể coi ý định này như một lời hoặc một logos mà Đấng Tạo Hóa nói vào bản chất của chúng ta, nhưng nó còn hơn thế nữa: nó cũng là việc chúng ta thừa nhận đầu tiên và đáp lại lời nói thần thiêng này. Mặc dù thực sự là của chúng ta, đáp ứng ban đầu này được bảo đảm với chúng ta trước khi chúng ta có thể thực hiện nó một cách có ý thức; quả thực, nó được trao cho chúng ta như nền tảng và phương hướng bên trong duy trì và định hướng mọi ý chí của chúng ta từ bên trong. Tuân theo hướng này không phải là trở thành một công cụ phi bản vị hóa của các lực lượng chưa phải của con người [sub-human], mà là lãnh nhận hình thức tự chiếm hữu đúng đắn, vốn là điều kiện và là kết quả của sự thống trị vương giả đối với thiên nhiên bao gồm trong hồng phúc nguyên thủy của Thiên Chúa dành cho nhân loại: “Và Thiên Chúa đã chúc phúc cho họ và phán ‘Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, tràn đầy mặt đất và thống trị nó’” (St 1:28).

Để cảm nhận được toàn bộ sức mạnh của chủ trương này, chúng ta cần nhắc nhớ tri nhận một cơ thể con người sống động là như thế nào. Nếu chúng ta suy gẫm về tri nhận này, chúng ta sẽ nhận ra rằng đó là ấn tượng về một thực tại mà chúng ta không thể xây dựng, nhưng chỉ có thể trước tiên tiếp nhận: một toàn thể duy nhất, độc đáo và không thể phân chia, tự nó xuất hiện ngay lập tức với một bằng chứng trước mọi nỗ lực phủ nhận hoặc thậm chí giải thích nó. Chính toàn thể cụ thể này, hoàn toàn thấm đẫm “linh hồn sống động” (St 2:7), là hiện thân rõ ràng của ý định nguyên thủy của Thiên Chúa đối với người nam và người nữ. Chính sự kiện được hiển thị trên thế giới như là nam hay nữ khiến mỗi người chúng ta thành một mặc khải sống động về kế hoạch quảng đại của Thiên Chúa, một kế hoạch mà các logos của nó được dệt vào kết cấu gợi cảm của cơ thể dị biệt hóa về giới tính của chúng ta. (3)

Giờ đây, một trong những cách diễn đạt hùng hồn nhất về ý định thần thiêng dành cho nam và nữ là hành vi mà mỗi người chúng ta mắc nợ nó sự hiện hữu của mình, một hành vi tự áp đặt mình như mô hình độc đáo của điều ta gọi là “tình dục”: Thực vậy, việc sử dụng nào khác các cơ quan sinh dục có thể đan xen một cách có thể quan niệm được sự hoà lẫn thân xác thân mật giữa nam và nữ, cuộc gặp gỡ mặt đối mặt của họ và tính sinh hoa kết trái liên kết của họ trong cùng một toàn thể liền mạch? (4) Cấu trúc [Gestalt] khôn sánh này rõ ràng là một dấu hiệu. Nhưng dấu hiệu này ám chỉ điều gì nếu không phải là xã hội gồm người đàn ông và người đàn bà trong hôn nhân?(5)

Chúng ta vừa thấy rằng mô hình “tình dục” là sự kết hợp sinh dục giữa nam và nữ. Nhưng sự kết hợp này không có ý nghĩa gì ngoài việc nó được cấu thành từ sự tham chiếu đến tính sinh hoa trái, ngay cả khi tính sinh hoa trái hướng tới sự chung thủy. (6) Theo nghĩa này, sự ôm ấp mang tính sinh sản của nam và nữ đồng thời biểu thị cả lòng tin [fides] lẫn con cái [proles], hai điều tốt vốn cùng tạo nên bản thể của hôn nhân. (7) Tất nhiên đây là một tuyên bố về “hôn nhân tự nhiên”, nhưng điều quan trọng là phải thấy rằng sự thống nhất không thể phân chia giữa khả năng sinh sản và sự chung thủy giúp cho hôn nhân tự nhiên trở thành việc sắp xếp và khả năng nguyên thủy cho việc đại diện mang tính bí tích của giao ước sinh hoa trái của Chúa Kitô với Giáo hội của Người. Thực ra, “đây là lý do tại sao người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ trở thành một xương một thịt. Đây là một mầu nhiệm lớn. Nhưng tôi nói về Chúa Kitô và Giáo Hội” (Eph 5:32).

Thánh Augustinô đưa ra một tuyên bố tương tự về mối liên hệ không thể tách rời giữa tính sinh hoa trái và lòng chung thủy trong khảo luận về thiện ích của hôn nhân, De Bono Conjugali (=DBC). (8) Trong đó, ngài hỏi, làm thế nào việc kết hợp tình dục có thể cấu thành một hành vi thực sự “có tính phu thê”? (9) Nói cách khác, làm thế nào nó có thể diễn đạt và làm thành sự mối dây ràng buộc của xã hội hôn nhân? Điều kiện thiết yếu là sự sẵn sàng sinh sản: Nếu không cởi mở đón nhận con cái, sự kết hợp tình dục không thể biểu thị lòng tin, và do đó không thể là một hành vi vợ chồng hay, như tôi thích gọi nó là một “vòng ôm vợ chồng”. (10) Khả năng phu thê của tính dục, việc sắp xếp của nó để biểu thị dây hôn phối, do đó đứng vững hay sụp đổ với điều mà Đức Phaolô VI gọi là “mối liên hệ bất khả tiêu giữa ý nghĩa kết hợp và ý nghĩa sinh sản vốn cố hữu trong chính hữu thể của [vòng ôm] vợ chồng,” (11) tức trong hành vi thể xác trong đó sự ôm ấp [amplexus] bao gồm “về mặt thể chất”.

Nhưng tại sao sự kết hợp tính dục phải hướng tới sự sinh hoa kết trái để tiêu biểu cho sự chung thủy vợ chồng? Câu trả lời ban đầu liên quan đến bản chất của chính sự kết hợp đó, mà ý tưởng chủ yếu của nó cũng bất biến theo cách riêng của nó giống như ý tưởng về hình tam giác. Giống như bạn không thể tách rời ý tưởng hình tam giác khỏi ba cạnh của nó thế nào, thì bạn cũng không thể tách rời ý tưởng kết hợp tình dục khỏi sự sinh sản thế ấy. (12) Thực thế, việc cố ý làm hỏng mục đích sinh sản của vòng ôm tình dục cũng sẽ tự động mâu thuẫn với đặc tính kết hợp của nó. Tình dục cố ý vô sinh không thể là một thành tựu tích cực của sự kết hợp xác thịt, mà chỉ có thể tạo ra một bản sao ký sinh của nó mà không có bất cứ sức mạnh kết hợp nào của riêng nó. Nó chỉ có thể đạt được một sự kết hợp thay thế giả tạo không thể cung cấp một biểu thức có giá trị cho sự thật của dây hôn phối.

Tuy nhiên, ngay cả khi thừa nhận rằng sự kết hợp tình dục tự nhiên có đặc tính sinh sản, thì tại sao việc chúng ta tận hưởng nó một cách chủ quan lại đòi hỏi việc khẳng định (hoặc ít nhất là không bác bỏ) mục đích sinh sản của nó? Ở đây, câu trả lời cũng nằm ở khuôn mẫu lý tưởng của việc kết hợp xác thịt [unio carnalis] như một hiệp thông kết hợp người nam và người nữ trong hành vi sinh sản chung. (13) Lý lẽ tồn tại từ trước này là một niềm vui khách quan, trong đó niềm vui chung của vợ chồng là không thể tách rời niềm vui chung của họ khi chào đón đứa con, vốn “hiện thân cho mọi vui hưởng tình yêu xác thịt chân chính [của họ]” (14) Như thế, toàn bộ bản thể của việc sinh hoa trái chủ quan trong kết hợp tình dục của vợ chồng hệ ở việc từ bỏ niềm vui khách quan này, một niềm vui luôn đi trước và vượt quá việc họ đánh giá cao về nó. Khi người đàn ông và người vợ chấp nhận sự từ bỏ này, mở lòng mình cho việc sinh sản, họ cùng nhau hướng việc phát biểu tình yêu bằng cơ quan sinh dục của họ về hướng hoa trái thích đáng của nó, và do đó trở thành một cả về thể xác lẫn ý hướng (đúng đắn). (15) Ngược lại, bất cứ việc chủ ý ngăn chặn nào đối với việc sinh sản đều khiến vợ chồng không đồng nhất với nhau trong ý hướng có cùng một mục đích (đúng đắn), do đó làm tổn thương không những tính toàn vẹn tự nhiên của sự kết hợp tình dục của họ mà còn cả khả năng tham gia như một vào khuôn mẫu niềm vui tự thông truyền về phương diện xã hội của nó. (16) Như thế, cùng một lúc, việc cố ý ngăn chặn việc sinh hoa kết trái đã làm tổn thương cả hình thức khách quan của sự kết hợp xác thịt lẫn sự hưởng thụ chủ quan của nó - do đó cản trở khả năng thể hiện sức mạnh kết hợp của mối dây phu thê trong lĩnh vực tình dục.

Do đó, mối liên hệ giữa sự kết hợp và sinh sản không chỉ tạo nên bản chất của tình dục mà còn biến nó thành một hình thức hiệp thông liên quan đến cả hai vợ chồng như một toàn thể. Như vậy, ngay cả nếu người đàn ông và người vợ không nhận thức đầy đủ những hàm ý của hành vi xác thịt—ai có thể ý thức được?—thì chính hành động đó “có ý định” coi cùng một cử chỉ này như lời thề hôn nhân của họ: sự tự hiến độc chiếm cho nhau không thể thu hồi được đặt trong tay Đấng Tạo Hóa. Khi, vào thời điểm tột đỉnh, hành vi cởi mở với việc vượt quá chính mình để hướng tới việc sinh hoa trái, thì việc cởi mở này là một lời mời gọi các cặp vợ chồng, một lời mời trả lại toàn bộ việc kết hợp của họ cho Thiên Chúa, Đấng sẽ biến đổi nó – nếu Người muốn – thành một hoa trái sống động tồn tại đến muôn đời. (17) Bất cứ nỗ lực cố ý nào nhằm làm cho tình dục trở nên vô sinh đều hàm chứa sự khước từ lời mời gọi thần thiêng này, một tiếng “Không” ngăn cách vợ chồng với nhau khỏi Thiên Chúa và với nhau. (18) Việc tránh thai đóng một cái chêm ly dị vào tận cốt lõi của việc kết hợp xác thịt, mầm mống của sự bất trung với Thiên Chúa, với nhau và với ơn gọi chung của chúng ta là giải phóng “tạo vật khỏi ách nô lệ hư nát để được tự do trong vinh quang của con cái Thiên Chúa” (Rm 8:21).

Trong những trang trước, tôi đã lập luận rằng chỉ có sự kết hợp xác thịt sinh hoa trái giữa người nam và người vợ - cái ôm hôn nhân - mới có thể xử công bằng đầy đủ với thiên chức ban đầu của tình dục, tức là biểu thị mối dây vợ chồng bất khả tiêu. Việc đạt được ý nghĩa này tùy thuộc vào sự tự hiến được ghi khắc trong khuôn mẫu tự nhiên của hành vi tình dục và được trao cho vợ chồng để họ làm cho thành sự. Tuy nhiên, không hề hạ thấp sự kết hợp của họ thành một cái cớ đơn thuần cho việc sinh sản, cử chỉ dâng hiến này hoàn thành nó như một sự chia sẻ niềm vui tột cùng: trải nghiệm mãnh liệt nhất của cuộc sống trùng khớp với hành động cho nó đi một cách không thể thu hồi. Ngay cả khi thực tại thuộc về trật tự tự nhiên, sự kết hợp tình dục cũng là một loại hành vi phụng vụ kết hợp việc hưởng thụ và kenosis (tước bỏ], việc tự sở hữu và tự hy sinh, trong một cử chỉ tương tự như Bí tích Thánh Thể. (19) Và qua cử chỉ thánh thể này, chúng ta thoáng nhìn thấy sự hiệp nhất (ba ngôi) của hữu thể và hồng ân trong chính Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao, khi bảo vệ tính toàn vẹn tự nhiên của vòng ôm vợ chồng, Giáo hội cũng đang bảo vệ “ơn gọi cao cả nhất” (20) đã được ghi khắc trong tính dục của chúng ta ngay từ đầu: việc sắp xếp để nó làm chứng cho sự duy nhất của Chúa Cha, Đấng, khi sinh ra Chúa Con cũng ban cho Người việc nhiệm xuy [spiration] ra Ngôi thứ ba, để “Hồng Ân chung cũng phát xuất từ [Đấng được sinh ra].” (21)

* Không những để tưởng nhớ, mà còn vì ý hướng của Stratford, người bạn và người anh em của chúng tôi; và vì ý hướng của vợ anh, người bạn và người chị em của chúng tôi, Léonie.

Communio 41 (Mùa hè 2014). © 2014 bởi Communio: Tạp chí Công Giáo Quốc tế

ADRIAN J. WALKER là một chủ bút của tạp chí Communio.
____________________________________________________________________________________
1. Chắc chắn, dây liên kết vợ chồng đòi hỏi sự ưng thuận của các người phối ngẫu, nhưng một khi họ đã ưng thuận thì điều đó thuộc về Thiên Chúa. Người tập hợp các tiếng “có” chủ quan của người đàn ông và người vợ thành một hình thức khách quan bao gồm toàn bộ cuộc sống chung của họ.

2. “[Consilium Dei de matrimonio ac familia” (Familiaris consortio, 3). Bản dịch này và tất cả các bản dịch khác là của tác giả.

3. Ý nghĩa thiết yếu của dấu hiệu mà chúng ta là lệ thuộc vào Thiên Chúa, nhưng chính vì lý do này, nó ở bên trong đối với chúng ta hơn là chúng ta đối với chính mình. Đây là lý do tại sao, trong nguyên tắc, mọi khoảnh khắc trong đời sống ý thức của chúng ta đều cởi mở đối với việc đột ngột nhận ra ý nghĩa mà nó truyền đạt.

4. Đây là lý do tại sao ngay cả hành vi tình dục “vi phạm” nhất trên thực tế cũng không bao giờ thực sự là một nỗ lực nhằm đạt được những mảnh vụn của hành vi sinh sản ngoài toàn thể không thể phân chia trong đó chúng được ban tặng lúc ban đầu.

5. Cái ôm mang tính sinh sản bao gồm sự kết hợp thể xác giữa người nam và người nữ, loại trừ bất cứ đối tác thứ ba nào về mặt thể lý và lên đến tuyệt đỉnh trong một sự kiện (transmissio seminis=truyền tinh trùng) vừa đóng ấn cho hành vi xác thịt vừa mở ra một tương lai ngoài tầm kiểm soát của các đối tác. Chẳng phải chúng ta thấy ở đây một hình ảnh hùng hồn về mối dây hôn nhân không thể thu hồi, độc chiếm và sinh hoa trái sao?

6. Kết luận này trở nên rõ ràng một khi chúng ta nhận ra rằng không có hoa trái nào của sự kết hợp tính dục có thể lớn hơn một con người mới được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và được ban cho sự sống đời đời với Người. Trước sự kỳ diệu này, cha mẹ của đứa trẻ không thể cam kết một cách hợp lý với nó bất cứ điều gì ngoại trừ lòng chung thủy không thể thu hồi của họ. Nhưng làm sao họ có thể cam kết không thể thu hồi với nó trừ khi họ cam kết với nhau một cách không thể thu hồi và độc chiếm?

7. Tất nhiên, điều này không có nghĩa là hôn nhân chỉ nhằm mục đích sinh sản. Tuy nhiên, điều đó có nghĩa là mục đích sinh sản của tình dục là nội tại trong khả năng diễn tả dây hôn phối, dù sao vốn cốt ở sự hiệp thông bất khả tiêu giữa một người nam và một người nữ. Ở đây rất thích hợp để chỉ ra rằng mỗi giới tính cung cấp một cách để trở thành một người hiệp thông với một người khác giới - và hôn nhân là sự bộc lộ đầy đủ đầu tiên của khuôn mẫu này, một khuôn mẫu đồng thời liên quan đến cả hai khía cạnh không thể giản lược được. “vis-à-vis,” hay sự đối lập tương đối, giữa hai giới và việc trao đổi hỗ tương toàn diện vì ích chung của xã hội hôn nhân.

8. Cuộc thảo luận sau đây dựa trên cách đọc suy đoán khảo luận của Thánh Augustinô, mà tôi tin rằng khảo luận này tiên liệu một số trực giác căn bản nào đó về thần học thân xác của Đức Gioan Phaolô II, đồng thời đưa ra một con đường vượt ra khỏi sự phân đôi vô ích giữa “chủ nghĩa duy thể lý” [physicalism] và “chủ nghĩa nhân vị.” Tuy nhiên, thay vì phát triển một sự biện minh chi tiết cho cách giải thích của tôi về quan điểm của Thánh Augustinô về xã hội hôn nhân, tôi tự do áp dụng nó trực tiếp vào câu hỏi hiện tại.

9. Xem De Bono Conjugali, X, 11.

10. Trong bản dịch khá tự do của tôi: “Khi sự kết hợp xác thịt đi kèm với sự thừa nhận nguyên nhân thực sự của khuôn mẫu dễ hiểu của nó, tức là việc sinh sản, thì nó hoàn toàn trung thành với chính nó. Nhưng chỉ có lòng chung thủy hoàn hảo này mới đủ cho hôn nhân” (“Concubitus enim necessarius causa generici inculpabilis et solus ipse nuptialis est”) (De Bono Conjugali, X, 11).

11. “[Nexus indissolubilis... inter significationem unitatis et significationem procreationis, quae ambae in Actu coniugali insunt” (Humanae vitae [=HV], 12).

12. Khuôn mẫu hữu hình của sự kết hợp tình dục xác nhận tính bất khả phân rẽ này, vì chính sự kiện hoàn tất sự kết hợp trong chính nó, tức là transmissio seminis [truyền tinh trùng], đồng thời từ bên trong mở nó ra hướng tới sự sinh hoa kết trái. Rõ ràng, không phải mọi trường hợp kết hợp xác thịt đều dẫn đến sự thụ thai trong diễn trình tự nhiên. Tuy nhiên, sự kết hợp tình dục đúng nghĩa sẽ không thể hiểu được nếu không có việc truyền tinh trùng, điều này sẽ không thể hiểu được nếu không đề cập đến chính khả năng sinh sản. Ngay cả biện pháp tránh thai cũng giả định “ý nghĩa” sinh sản của hành vi, mà chuyển động của hành vi này không thể đảo ngược mà chỉ cản trở việc đạt được mục tiêu của nó, giống như một cầu thủ chặn một đường chuyền banh dài ở vạch chạm bóng [touchdown line]. Nói một cách thích đáng hơn, như thể chính tiền vệ phải chặn đường chuyền của chính mình khi nó rời khỏi tay anh ta, cố tình làm tổn hại đến tính toàn vẹn của những gì lẽ ra sẽ là một màn trình diễn tài năng ngoạn mục của anh ta.

13. Điều quan trọng cần nhấn mạnh là sự hiệp thông này đồng thời bao gồm cả sự kết hợp của hai giới tính như một nguyên tắc sinh sản đơn nhất và sự đối lập tương đối lâu dài của họ, vốn là những khía cạnh không thể tách rời, tạo điều kiện qua lại cho nhau của cùng một toàn thể phức tạp.

14. “Unus honestus fructus... concubitus [Một hoa trái trung thực... của sự giao hợp” (De Bono Conjugali, I, 1). Đứa trẻ, hay sự sẵn sàng đón nhận một đứa trẻ, là cách thử nghiệm có tính quyết định của việc sự kết hợp không được sử dụng như một cái cớ cho một ý định xa lạ nào đó, mà đang được tận hưởng một cách đúng đắn theo đúng bản chất của nó. Hơn thế nữa: chính đứa trẻ là toàn bộ hoa trái đích thực của sự kết hợp, được coi là bộc lộ ý nghĩa trọn vẹn của nó vượt quá thời điểm hoàn hợp tạm thời của nó.

15. Bình luận về việc tạo ra Evà từ cạnh sườn Ađam, Thánh Augustinô viết rằng “họ gắn kết với nhau ở cạnh sườn, cùng nhau bước đi và cùng nhau hướng tới mục tiêu mà họ hướng tới. Do đó, mối nối kết xã hội là ở con cái” (“Lateribus enim sibi iunguntur, qui pariter ambulant et pariter quo ambulant intuentur. Consequens est connexio societatis in filiis”) (De Bono Conjugali, I, 1). Cần phải nhấn mạnh rằng việc vợ chồng tự hiến chung cho con cái và việc họ tự hiến cho nhau không phải là hai điều riêng biệt, mà là những khía cạnh đồng thời và cùng mở rộng của cùng một trương độ [coextensive] với cùng vòng ôm sinh sản.

16. Việc xem xét này cũng gợi ý tại sao mọi hành vi kết hợp xác thịt phải hướng tới sự sống mới (x. Humanae viae, 11). Trong chừng mực là một tác nhân hữu lý, con người luôn có trách nhiệm bảo vệ ý nghĩa không hề suy giảm của sự kết hợp tính dục, vốn đang bị đe dọa trong mỗi trường hợp của nó. Trách nhiệm này không mâu thuẫn với tính bất định của ham muốn tình dục của chúng ta, vốn được hiểu rõ nhất như dấu hiệu của vấn đề sau đây: Làm thế nào để tôi nhận ra sự tích hợp giữa lý trí và đam mê tương ứng với bản chất của tôi? Đối với Thánh Augustinô, cũng như đối với Đức Phaolô VI, giải pháp lý tưởng cho vấn đề này đòi hỏi chính việc sẵn sàng thừa nhận lý lẽ thuần khiết của hành vi xác thịt trong mỗi trường hợp của nó – một sự sẵn sàng trái ngược với việc sử dụng biện pháp tránh thai.

17. Ngay cả những cặp vợ chồng không có khả năng sinh con vì lý do tuổi tác hoặc vì một số trở ngại về thể chất cũng tham gia vào việc dâng hiến này, bao lâu việc họ sử dụng cơ quan sinh dục đại diện cho những loại hành vi có đặc trưng vừa hiệp nhất vừa sinh sản. Điều tương tự cũng đúng với những sửa đổi thích đáng nơi các cặp vợ chồng, vì những lý do đủ nghiêm trọng, đã sử dụng các phương pháp điều hòa sinh sản không có tác dụng tránh thai, những phương pháp này không tích cực cản trở việc đạt được mục đích sinh sản của hành vi, nhưng lợi dụng “các giai đoạn không thể thụ thai” khi biểu thức của nó tự nhiên không hoạt động.

18. Mặc dù lý tưởng nhất là vợ chồng sẽ thừa nhận lời mời của Thiên Chúa với lòng biết ơn, nhưng nguyên việc không từ chối nó cũng được coi là “Có” trong bất cứ trường hợp nào. Chúng ta có thể giả thiết việc không từ chối như vậy trong việc khiếm diện hành vi cố ý can thiệp vào hình thức khách quan của việc kết hợp xác thịt hoặc chiều kích sinh sản của nó. Kiểu “ưng thuận thụ động” này có thể không phải là lý tưởng, nhưng nó đã là bước khởi đầu cho việc hiện thực hóa lý tưởng một cách trọn vẹn. Thực thế, đến nỗi ngay ý định tích cực thụ thai một đứa con cũng là vấn đề của sự kiên nhẫn dễ tiếp thu, thậm chí là vấn đề khẩn xin, hơn là ý chí hung hăng hoặc tính toán lạnh lùng.

19. Sự kết hợp tình dục một cách tự nhiên báo trước việc thi hành chức linh mục giáo dân mà chúng ta gọi là “sự hoàn hợp” của bí tích hôn nhân.

20. “Altissima vocatio” (Gaudium et spes, 22).

21. “Sic ergo eum genuit, ut etiam de illo Donum commune procederet, et Spiritus Sanctus spiritus esset amborum” ["Vậy nên Người đã sinh ra Người để Người có thể nhiệm xuy một Hồng Ân chung, và Chúa Thánh Thần là tinh thần của cả hai" (St Augustine, De Trinitate, XV, 17. 29).