2.3.2. MỘT CHÚ GIẢI VỀ CÁC TÍN ĐIỀU

a. Quyền tối thượng tài phán

67. Để giải thích thỏa đáng các định nghĩa của Công đồng Vatican I, nhiều cuộc đối thoại đã nghiên cứu lịch sử bản văn Pastor æternus, đặc biệt là bối cảnh đã quyết định việc lựa chọn các thuật ngữ được sử dụng (đặc biệt là các giải thích của Giám mục Zinelli, phát biểu thay mặt cho Phái đoàn Đức tin). Các cuộc đối thoại đã có thể làm rõ rằng, theo các diễn tiến của Công đồng, tín điều về quyền tài phán phổ quát bao gồm một số hạn chế.(17) Chính Hiến chế nhấn mạnh rằng thẩm quyền “thông thường và trực tiếp” của mọi giám mục trong Giáo hội đặc thù của mình phải được “khẳng định, củng cố và biện minh” bằng việc thực thi thừa tác vụ Giám mục của Rôma (Pastor æternus III, DH 3064). Việc làm rõ ý nghĩa của các thuật ngữ này đã giúp hiểu rõ hơn ý định của Công đồng. Như ARCIC giải thích:

“Những khó khăn đã nảy sinh từ việc Công đồng Vatican đầu tiên quy định quyền tài phán phổ quát, thông thường và trực tiếp cho giám mục Rôma. Việc hiểu sai các từ ngữ kỹ thuật này đã làm trầm trọng thêm các khó khăn. Quyền tài phán của giám mục Rôma với tư cách là giám mục hoàn cầu được gọi là thông thường và trực tiếp (tức là không có trung gian) vì nó vốn có trong chức vụ của ngài; nó được gọi là phổ quát đơn giản vì nó phải giúp ngài có khả năng phục vụ sự hiệp nhất và hòa hợp hiệp thông như một tổng thể và trong từng bộ phận của nó” (ARCIC 1981, 18; xem thêm MERCIC 1986, 61). “Sau khi xem xét những gì thực sự đã được bỏ phiếu tại công đồng”, Nhóm Farfa Sabina có thể tuyên bố rằng “tóm lại, rõ ràng là Vatican I không biến giáo hoàng thành một quân chủ tuyệt đối của giáo hội” (Farfa 2009, 105).

68. Bất chấp những minh giải này, các cuộc đối thoại thần học vẫn bày tỏ nhu cầu tích hợp giáo huấn của Vatican I về quyền tài phán trong một communio ecclesiology [giáo hội học hiệp thông]. Như cuộc đối thoại Lutheran–Catholic của Đức nêu rõ: “Đối với sự hiểu biết của Luther, nguyên tắc về 'quyền tối thượng tài phán' là không thể chấp nhận được, trừ khi hình thức của nó được dìm vào cấu trúc communio [hiệp thông] của Giáo hội” (L–C Germ 2000, 198). Thật vậy, “một số người coi việc Giám mục của Rôma cho rằng, do định chế thần linh, mình có thẩm quyền tài phán thông thường, trực tiếp và phổ quát đối với toàn thể Giáo hội là một mối đe dọa đối với tính toàn vẹn của hợp đoàn giám mục và đối với thẩm quyền tông truyền của các giám mục, những người anh em mà Phê-rô được lệnh củng cố” (Phản hồi của Viện giám mục của Giáo hội Anh, 47). Tương tự như vậy, cuộc đối thoại Chính thống giáo-Công Giáo quốc tế lưu ý rằng “Đối với Chính thống giáo, một giáo hội học như vậy là một sự rời xa nghiêm trọng với truyền thống chính thống của các Giáo phụ và các công đồng chung, vì nó làm lu mờ tính Công Giáo của mỗi Giáo hội địa phương” (O-C 2023, 3.10).

b. Ơn bất khả ngộ

69. Bằng cách nghiên cứu bối cảnh lịch sử của Công đồng Vatican I, các diễn tiến của nó (đặc biệt chú ý đến mối quan hệ của Giám mục Gasser, chủ tịch của ủy ban chịu trách nhiệm), và sự tiếp nhận nó, một số cuộc đối thoại thần học đã có thể làm rõ ý nghĩa của một số thuật ngữ liên quan đến tín điều về ơn bất khả ngộ và nhất trí về các khía cạnh tín lý của nó (xem L–C US 1978, Farfa 2009, Dombes 2014)

Minh giải các biểu thức và ý định

70. Các cuộc đối thoại thần học đã có thể làm rõ cách dùng lời của tín điều. Cuộc đối thoại Lutheran–Công Giáo tại Hoa Kỳ (1978), Groupe des Dombes (2014) và Nhóm Farfa Sabina, nói riêng, đưa ra “một số sửa đổi quan trọng giúp xóa bỏ nhiều định kiến và hiểu lầm thông thường” và làm rõ điều gì không phải là bất khả ngộ (Farfa 2009, 263): (1) bất khả ngộ không phải là một phẩm chất cá nhân: “Công đồng Vatican I không tuyên bố mà không có điều kiện rằng giáo hoàng là bất khả ngộ. Thay vào đó, nó dạy rằng khi thực hiện một số hành vi được chỉ định rất hẹp, ngài được ban cho cùng một sự bất khả ngộ mà Chúa Kitô đã ban cho Giáo hội của Người (DS 3074)” (L–C US 1978, 14; cũng như MERCIC 1986, 71) – nói cách khác, nó “không định nghĩa ơn bất khả ngộ cá nhân của giáo hoàng, mà là khả năng của ngài trong một số điều kiện nhất định để tuyên bố một cách bất khả ngộ đức tin của Giáo hội” (O-C 2023, 3.7); (2) ơn bất khả ngộ không độc lập với Giáo hội và tuyên bố cho rằng các định nghĩa của giáo hoàng là không thể đảo ngược “tự chính chúng và không phải bởi sự đồng ý của Giáo hội (ex sese, non autem ex consensu ecclesiæ)” đã được thêm vào “với mục đích loại trừ khuynh hướng của một số người Gallican và những người theo chủ nghĩa duy công đồng, những người coi sự chấp thuận của các giám mục là cần thiết để mang lại sự bất khả ngộ cho bất cứ định nghĩa nào của giáo hoàng. Thuật ngữ đồng thuận tại Vatican I được hiểu theo nghĩa pháp lý là sự chấp thuận chính thức chứ không phải theo nghĩa chung hơn là sự đồng ý hoặc chấp nhận của toàn thể Giáo hội” (L–C US 1978, 17; cũng như O-C 2023, 3.7); (3) ơn bất khả ngộ không phải là tuyệt đối vì nó bị giới hạn không những bởi chủ thể và hành động của nó, mà còn bởi đối tượng của nó, vì giáo hoàng không thể công bố một giáo huấn mới, mà chỉ đưa ra một công thức phát triển hơn về một học thuyết đã bắt nguồn từ đức tin của Giáo hội (depositum fidei) (PA IV). Trong cuộc đối thoại Luther-Công Giáo tại Hoa Kỳ, các thành viên Luther thừa nhận rằng “ngôn ngữ bất khả ngộ không nhằm thêm bất cứ điều gì vào thẩm quyền của Tin mừng, mà đúng hơn là để thẩm quyền đó được công nhận mà không có sự mơ hồ.” (L–C US 1978, “Suy gẫm Luther” 12). Tương tự như vậy, ARCIC khẳng định, “sự không thể sai lầm chỉ có nghĩa là giữ cho phán đoán khỏi sai lầm để duy trì Giáo hội trong chân lý, chứ không phải linh hứng hay mặc khải tích cực. Hơn nữa, ơn bất khả ngộ được gán cho giám mục Rôma là một ân huệ, trong một số hoàn cảnh và trong những điều kiện nhất định, để trở thành một cơ quan của ơn bất khả ngộ của Giáo hội” (ARCIC 1981, chú thích 7).

71. Ngoài việc minh giải cách dùng lời của chính tín điều, các cuộc đối thoại cũng có thể tìm thấy một số hội tụ về ý nghĩa của nó, đặc biệt là nhận ra nhu cầu về một thẩm quyền giảng dạy thể nhân, vì sự hiệp nhất của Giáo hội là sự hiệp nhất trong chân lý. Trong cuộc đối thoại Lutheran-Công Giáo tại Hoa Kỳ, các thành viên Lutheran cho biết họ được khuyến khích "xem xét tầm quan trọng của việc các giáo hội lên tiếng, khi hoàn cảnh đòi hỏi, với một tiếng nói duy nhất trên thế giới và một thừa tác vụ giảng dạy phổ quát như thừa tác vụ của giáo hoàng có thể thực thi một thừa tác vụ hiệp nhất mang tính giải phóng và trao quyền thay vì hạn chế hoặc đàn áp" (L–C US 1978, 18). Theo ARCIC, người thực thi một thừa tác vụ hiệp nhất phổ quát cũng nắm giữ một thẩm quyền giáo huấn đặc thù: "Phán quyết của Giáo hội thường được đưa ra thông qua quyết định của thượng hội đồng, nhưng đôi khi một giáo chủ hành động trong sự hiệp thông với các giám mục đồng cấp của mình có thể đưa ra quyết định ngay cả khi không có thượng hội đồng. Mặc dù trách nhiệm bảo vệ Giáo hội khỏi sai lầm cơ bản thuộc về toàn thể Giáo hội, nhưng trách nhiệm này có thể được thực thi thay mặt cho Giáo hội bởi vị giám mục phổ quát […] Trên thực tế, đã có những thời điểm trong lịch sử của Giáo hội khi cả các công đồng lẫn các giáo chủ phổ quát đều bảo vệ các lập trường hợp pháp đang bị tấn công” (ARCIC 1981, 28). Khi đó, Giáo hội cần cả thẩm quyền giảng dạy mang tính hợp đoàn lẫn cá nhân: “[…] Giáo hội cần cả một thẩm quyền đa dạng, phân tán, mà với nó, toàn thể dân Chúa đều tham gia tích cực, và một giáo chủ phổ quát như đầy tớ và là tập chú của sự hiệp nhất hữu hình trong chân lý và tình yêu. Điều này không có nghĩa là mọi khác biệt đã bị xóa bỏ; nhưng nếu bất cứ chức năng và chức vụ Phêrô nào được thực thi trong Giáo hội sống động mà một giám mục phổ quát được kêu gọi phục vụ như một tập chú hữu hình của nó, thì cố hữu trong chức vụ của ngài là việc ngài nên có cả trách nhiệm giáo huấn được xác định lẫn ơn ban thích đáng của Chúa Thánh Thần giúp ngài thực hiện nó” (id.,33). Trong Phản hồi của mình cho Ut unum sint, Giáo hội Anh cũng công nhận rằng “Do đó, các người Anh giáo không hề phản đối nguyên tắc và thực hành của một thừa tác vụ thể nhân ở bình diện thế giới trong việc phục vụ sự hiệp nhất. Thật vậy, kinh nghiệm của họ về Hiệp thông Anh giáo ngày càng khiến họ đánh giá cao nhu cầu thích đáng, bên cạnh các thừa tác vụ cộng đồng và hợp đoàn, phải có một dịch vụ thể nhân cho sự hiệp nhất trong đức tin” (44). Tương tự như vậy, Nhóm des Dombes tuyên bố: “Mỗi hợp đoàn nên được chủ trì để đưa ra quyết định về tín lý, kết luận về một vấn đề nhất định và phát biểu sự đồng thanh nhất trí của nó. Dữ kiện sâu sắc của con người này được chứng thực trong Tân Ước với vai trò chủ tịch do các tông đồ, đặc biệt là Phê-rô, bất kể các Giáo hội có thể rút ra những hệ luận nào từ đó. Quyền hạn của chức chủ tịch thể nhân thường đại diện, đảm nhận và tóm tắt trong đó thẩm quyền của cộng đồng và của hợp đoàn thừa tác” (Dombes 2014, 346).

Những dè dặt còn lại

72. Bất chấp những minh giải này, các cuộc đối thoại vẫn bày tỏ những mối quan tâm liên quan đến các nguyên tắc sau:

(1) Quyền tối thượng của Tin mừng, một điểm đặc biệt quan trọng đối với phái Luther. “Nguyên tắc bất khả ngộ là không thể chấp nhận được đối với sự hiểu biết của người Luther trừ khi các quyết định ex cathedra của giáo hoàng vẫn nằm trong điều khoản cuối cùng của sự mặc khải được đưa ra trong Kinh thánh” (L–C Germ 2000, 198, xem thêm L–C US 1978, 41, 52; L–C US 2004, 117). Về phần mình, người Công Giáo thừa nhận rằng “vẫn còn một nhiệm vụ đại kết quan trọng đối với người Công Giáo: ơn bất khả ngộ phải được xem xét thêm dưới góc độ quyền tối thượng của Tin mừng và hành động cứu rỗi của Chúa Kitô; nhưng điều quan trọng nữa là phải cho thấy ơn bất khả ngộ có thể phục vụ cho dân Chúa ra sao bằng cách thể hiện quyền tối thượng đó” (L–C US 1978, 75).

(2) Ơn bất khả ngộ phục vụ cho sự bất khả ngộ của toàn thể Giáo hội. Lumen gentium mô tả ơn bất khả ngộ như một hồng phúc mà toàn thể Giáo hội được “ban tặng” (LG 25; xem thêm LG 12, xem ở trên §66).

Tuy nhiên, một số cuộc đối thoại đã bày tỏ sự dè dặt về việc sử dụng thuật ngữ này: “Chúng tôi đồng ý rằng đây là một thuật ngữ chỉ áp dụng vô điều kiện cho Thiên Chúa, và việc sử dụng nó cho một con người, ngay cả trong những hoàn cảnh rất hạn chế, có thể gây ra nhiều hiểu lầm […] Chúng tôi cũng thừa nhận rằng việc gán cho giám mục Rôma ơn bất khả ngộ trong một số điều kiện nhất định có xu hướng mang lại tầm quan trọng quá mức cho tất cả các tuyên bố của ngài” (ARCIC 1981, 32; xem thêm Farfa 2009, 263). Trong cùng một tinh thần phê phán: “Những người theo Giáo hội Giám lý có vấn đề đối với sự hiểu biết của Công Giáo Rôma về ơn bất khả ngộ, đặc biệt là khi nó dường như ngụ ý một sự phân định chân lý vượt quá khả năng của con người tội lỗi […] Những người theo Giáo hội Giám lý còn gặp khó khăn hơn nữa với ý tưởng cho rằng Giám mục Rôma có thể hành động trong quá trình này thay mặt cho toàn thể Giáo hội” (MERCIC 1986, 72–73). Một khái niệm rộng hơn thường được các cuộc đối thoại ưa chuộng là khái niệm bất khả khuyết [indefectibility], “một ý niệm không nói về việc Giáo hội không có khuyết điểm nhưng tuyên xưng rằng, bất chấp tất cả những điểm yếu và thất bại của mình, Chúa Kitô vẫn trung thành với lời hứa của Người rằng các cổng địa ngục sẽ không thắng thế trước Giáo hội” (ARCIC 1981, chú thích 3). Một số người trong số họ lưu ý trong lịch sử của Giáo Hội Công Giáo có một "sự chuyển động từ tính bất khả khuyết (hoặc không sai lầm) của Giáo hội sang tính bất khả ngộ của huấn quyền Giáo hội" (Dombes 2014, 192) và nhấn mạnh rằng ơn bất khả ngộ nên được hiểu là "phục vụ cho sự bất khả khuyết của Giáo hội" (ARCIC II 1999, 42).

Thật vậy, "lời hứa thần thiêng về việc ở lại trong sự thật chủ yếu được hiểu là có liên quan đến indefectibilitas ecclesiæ" (khuyết điểm của Giáo hội) (Farfa 2009, 272), mà "việc duy trì" nó được hiểu là "công trình tối cao của Thiên Chúa" (L–C US 1978, 3). Cả tính bất khả khuyết và ơn bất khả ngộ đều là những biểu thức của đức tin vào Chúa Thánh Thần, Đấng mà Chúa Kitô đã hứa sẽ dẫn chúng ta đến toàn bộ sự thật (Ga 16:13).

(3) Việc thực thi tính hợp đoàn giám mục. Định nghĩa của Công đồng Vatican I không loại trừ sự cần thiết phải tham vấn với hợp đoàn giám mục, và ám chỉ đến những cách khác nhau để phân định đức tin của toàn thể Giáo hội (các công đồng chung, tham vấn ý kiến của các Giáo hội rải rác, các công đồng đặc biệt và “các phương tiện khác do Chúa quan phòng ban cho”, xem Pastor æternus IV). Thật vậy, cần lưu ý rằng một cuộc tham vấn rộng rãi của các giám mục Công Giáo, hỏi họ về đức tin và lòng sùng kính của giáo sĩ và toàn thể dân Chúa, đã được thực hiện để chuẩn bị cho việc công bố các tín điều về Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội (1854) bằng thông điệp Ubi primum (1849) và về Đức Mẹ Lên Trời (1950) bằng thông điệp Deiparæ Virginis Mariæ (1946, được trích dẫn trong Tông Hiến Munificentissimus Deus, 1950, 11–12). Tuy nhiên, Vatican I “vẫn im lặng về nhu cầu phải có sự tham gia hoặc tham vấn của giáo hội trong việc thiết lập chân lý” vì quan tâm đến việc tránh chủ nghĩa Gallicanism (Farfa 2009, 80) và không hệ thống hóa quá trình tham vấn để xác định đức tin của giáo hội. Công đồng Vatican II đã hoàn thiện Công đồng Vatican I thông qua giáo huấn của mình về tính hợp đoàn của giám mục (LG 22–23, 25) (xem ở trên §66): “Công đồng Vatican II đã kết hợp và hoàn thiện giáo huấn của Công đồng Vatican I rằng giáo hoàng có thẩm quyền tối cao và toàn quyền đối với Giáo hội và rằng trong một số hoàn cảnh nhất định, ngài có thể tuyên bố đức tin của Giáo hội một cách bất khả ngộ bằng cách nói rằng đoàn giám mục (‘hợp đoàn giám mục’) trong sự hiệp nhất với người đứng đầu của nó, tức giáo hoàng, cũng thực thi cả hai đặc quyền này (Lumen Gentium, 22, 25, tương ứng)” (O-C 2023, 4.7); công đồng “tiếp thu các định nghĩa của Công đồng Vatican I về quyền tối thượng của giáo hoàng và bổ sung chúng bằng cách nhấn mạnh vai trò của các giám mục” (Thánh Irenaeus 2018, 11.12). Tuy nhiên, “theo quan điểm Chính thống giáo, nó đã không đi đủ xa trong việc xem xét lại các tín điều của Vatican I về ơn bất khả ngộ và quyền tối thượng của giáo hoàng” (id., 11.14). ARCIC đã đặt câu hỏi về việc giáo huấn của Vatican II về vấn đề này đã thay đổi thực hành của Giáo Hội Công Giáo đến mức nào, khi họ hỏi: “Liệu giáo huấn của Công đồng Vatican II về tính hợp đoàn của các giám mục đã được thực hiện đầy đủ chưa?” (ARCIC 1999, 57).

(4) Sự cần thiết của việc tiếp nhận. Ngoài tính hợp đoàn của các giám mục, nhiều đối tác đại kết khẳng định nhu cầu phải có sự suy tư mới về mối quan hệ giữa thẩm quyền giảng dạy và sự tiếp nhận của toàn thể Giáo hội, công nhận tầm quan trọng của vai trò ‘sensus fidei’ của các tín đồ cá thể và của toàn thể tín hữu – ‘sensus fidelium’. ARCIC tuyên bố rằng “mặc dù không phải thông qua sự tiếp nhận của dân Chúa mà một định nghĩa đầu tiên có được thẩm quyền, nhưng sự đồng thuận của các tín hữu là dấu hiệu cuối cùng cho thấy quyết định có thẩm quyền của Giáo hội trong vấn đề đức tin đã thực sự được Chúa Thánh Thần bảo vệ khỏi sai lầm” (ARCIC 1981, 25). Do đó, “Mặc dù chúng ta đồng ý về nhu cầu phải có một quyền tối cao phổ quát trong một Giáo hội thống nhất, nhưng những người Anh giáo không chấp nhận quyền sở hữu, có bảo đảm, một hồng ân hỗ trợ của Thiên Chúa như vậy trong phán đoán vốn nhất thiết phải gắn liền với thừa tác vụ của giám mục Rôma, nhờ đó các quyết định chính thức của ngài có thể được biết là hoàn toàn chắc chắn trước khi được các tín hữu tiếp nhận” (id., 31). Để trả lời cho Ut unum sint, Viện Giám mục của Giáo hội Anh đã nhắc lại một trong những tuyên bố trước đây của mình: “những người Anh giáo nói ‘có’ với quyền tối thượng phổ quát của giám mục Rôma như người đặc biệt biểu thị cho sự hiệp nhất và tính phổ quát của Giáo hội và thừa nhận trách nhiệm đặc biệt của ngài trong việc duy trì sự hiệp nhất trong chân lý và sắp xếp mọi thứ trong tình yêu là một chuyện; nhưng chuyện khác hẳn là đồng ý với sự bất khả ngộ mà không hiểu về sự tiếp nhận như chúng tôi đã mô tả” (46).

Đối thoại quốc tế Chính thống giáo-Công Giáo cũng lưu ý trong tài liệu mới nhất của mình rằng “Giáo hội Chính thống giáo cũng coi sự bất khả ngộ thuộc về Giáo hội như một toàn thể, được phát biểu qua các công đồng được toàn thể dân Chúa tiếp nhận” (O-C 2023, 3.10).

Các tài liệu trước đây của họ đã đề cập đến vấn đề tiếp nhận như một yêu cầu của tính đồng nghị: “Tính đại kết của các quyết định của một công đồng được công nhận thông qua quá trình tiếp nhận dài hạn hoặc ngắn hạn, theo đó toàn thể dân Chúa – thông qua suy tư, biện phân, thảo luận và cầu nguyện – thừa nhận trong những quyết định này một đức tin tông truyền duy nhất của các Giáo hội địa phương, đức tin này luôn giống nhau và các giám mục là những thầy dạy (didaskaloi) và là người bảo vệ. Quá trình tiếp nhận này được diễn giải khác nhau ở Đông và Tây tùy theo các truyền thống giáo luật tương ứng của họ. Do đó, tính công đồng hoặc tính đồng nghị liên quan đến nhiều thứ hơn là các giám mục được tập hợp. Nó liên quan đến cả các Giáo hội của họ. Những người trước là người mang và lên tiếng cho đức tin của những người sau. Các quyết định của các giám mục phải được tiếp nhận trong đời sống của các Giáo hội, đặc biệt là trong đời sống phụng vụ của họ.

Mỗi Công đồng Chung được tiếp nhận như vậy, theo nghĩa đầy đủ và đúng đắn, do đó, là sự biểu hiện và phục vụ cho sự hiệp thông của toàn thể Giáo hội” (O–C 2007, 37–38; xem thêm O-C 2016, 18; OO–C 2015, 20).

73. Bất chấp những dè dặt còn lại này, một số cuộc đối thoại đã ghi nhận những tiến triển đầy hứa hẹn khi đọc lại Công đồng Vatican I. Ví dụ, các thành viên Luther của Nhóm Farfa Sabina đã có thể tuyên bố: “Theo góc độ này, chức giáo hoàng đã mất đi bản chất là một vấn đề gây tranh cãi không thể tránh khỏi giữa người Luther và người Công Giáo. Nếu Công đồng Vatican I được diễn giải như đã trình bày ở trên, người Luther có thể sẵn sàng công nhận chức giáo hoàng là một biểu thức hợp pháp của thừa tác vụ Phêrô về sự hiệp nhất cho Giáo Hội Công Giáo Rôma. Điều này không có nghĩa là hình thức hiện tại của thừa tác vụ giáo hoàng được Giáo hội Luther coi là hiện thân thích đáng cho thừa tác vụ giáo hội phổ quát của sự hiệp nhất cho sự communio ecclesiarum [hiệp thông các giáo hội] của tương lai” (Farfa 2009, 266). Tương tự như vậy, cuộc đối thoại Lutheran-Công Giáo ở Úc tuyên bố rằng “Người Lutheran có thể nhận ra rằng cách Giáo Hội Công Giáo ngày nay giảng dạy học thuyết về sự bất khả ngộ của giáo hoàng có nhiều điểm chung với cách hiểu của phái Luther về sự bất khả ngộ của lời Chúa và sự bất khả khuyết của Giáo Hội Công Giáo, nơi tiếp nhận lời này và truyền nó lại trong việc công bố và giảng dạy của mình” (L–C Aus 2016, 125).

______________________________________________________________________________

(17). Như Nhóm Farfa Sabina đã minh giải: (1) cùng một tính viên mãn quyền lực thuộc về các giám mục họp trong một công đồng cùng với giáo hoàng; (2) quyền hạn của giáo hoàng bị giới hạn bởi luật tự nhiên và thiên luật (tức Mặc khải) cũng như thông thường bởi luật giáo luật và luật thế tục; (3) trong khi quyền hạn của giáo hoàng là “thông thường” (tức là không được ủy quyền) và “trực tiếp” (tức là được thực hiện mà không cần nhờ đến trung gian), giáo hoàng thường không can thiệp vào cuộc sống hàng ngày của giáo hội địa phương, mà chỉ trong trường hợp ngoại lệ và trong trường hợp khẩn cấp; (4) quyền tài phán của giáo hoàng luôn buộc phải cổ vũ việc xây dựng Giáo hội và không bao giờ gây nguy hiểm cho luật và trật tự thần thiêng của giáo hội (xem Farfa 2009, 102).

Còn tiếp