3. Các Góc Nhìn Cho Một Thừa Tác Vụ Hiệp Nhất Trong Một Giáo Hội Tái Hợp Nhất

74. Cách tiếp cận các câu hỏi thần học cơ bản vừa được đề cập đã mở ra những con đường mới để suy tư về cách một thừa tác vụ hiệp nhất có thể được thực thi trong một Giáo hội đã hòa giải. Như Ủy ban Đức tin và Trật tự của Hội đồng các Giáo hội Thế giới đã hỏi: “Nếu, theo ý muốn của Chúa Kitô, những chia rẽ hiện tại được khắc phục, thì làm thế nào một thừa tác vụ phát huy và cổ vũ sự hiệp nhất của Giáo hội ở bình diện hoàn vũ có thể được hiểu và thực hiện?” (FO 2013 TCTCV, 57).

3.1. Có Cần Thiết Một Quyền Tối Thượng Cho Toàn Thể Giáo Hội Không?

75. Trước khi xem xét các đặc điểm của một quyền tối thượng có thể có cho toàn thể Giáo hội, câu hỏi đầu tiên là liệu sự hiện hữu của một quyền tối thượng như vậy có cần thiết hay không. Nhiều cuộc đối thoại thần học và phản hồi cho Ut unum sint đã thừa nhận yêu cầu về một quyền tối thượng cho toàn thể Giáo hội. Ngoài các lập luận theo kinh thánh mà Giáo Hội Công Giáo thường đưa ra, họ đề xuất thêm các biện minh: lập luận về truyền thống tông đồ, lập luận về giáo hội học và lập luận thực dụng.

3.1.1. Lập Luận Từ Truyền Thống Tông Đồ

76. Từ Giáo hội Sơ khai, Kitô giáo được tổ chức thành các giáo phận tông đồ lớn chiếm một thứ bậc chuyên biệt, giáo phận Rôma là giáo phận đầu tiên trong phẩm trật. Các cuộc đối thoại giữa Giáo Hội Công Giáo và Giáo hội Chính thống giáo nhấn mạnh lập luận này. Trên cơ sở đó, vào năm 1989, Hội đồng Thần học Chính thống giáo–Công Giáo Bắc Mỹ thừa nhận rằng: “Chính thống giáo chấp nhận khái niệm quyền tối thượng phổ quát, nói đến nó như ‘quyền tối thượng danh dự’ được trao cho một primus inter pares [người thứ nhất trong những người bình đẳng]” (O–CUS 1989, 7)”. Đối thoại quốc tế Chính thống giáo–Công Giáo cũng có thể nêu trong Văn kiện Ravenna rằng “thực tại quyền tối thượng ở bình diện hoàn cầu được cả Đông và Tây chấp nhận”, trong khi thừa nhận rằng “có những khác biệt về việc hiểu cách thức thực thi quyền này, và cả về nền tảng kinh thánh và thần học của nó” (O–C2007, 43). Văn kiện Chieti nêu rõ: “Giữa thế kỷ thứ tư và thứ bảy, thứ tự (taxis) của năm tòa thượng phụ đã được công nhận, dựa trên và được các công đồng chung chấp thuận, với tòa giám mục Rôma chiếm vị trí đầu tiên, thực thi quyền tối thượng danh dự (presbeia tes times), tiếp theo là các tòa giám mục Constantinople, Alexandria, Antioch và Jerusalem, theo thứ tự chuyên biệt đó, theo truyền thống chính thống.” (O–C 2016, 15). Trong tài liệu của nó, “lập trường của Tòa Thượng phụ Moscow về Vấn đề Quyền tối thượng trong Giáo hội Hoàn vũ” (2013), trong đó bày tỏ sự không đồng tình với phần cuối của Văn kiện Ravenna, Thánh Thượng hội đồng của Tòa Thượng phụ Moscow cũng công nhận sự hiện hữu của “quyền tối thượng danh dự trong Giáo hội Hoàn vũ” được thực thi trong thiên niên kỷ đầu tiên bởi Giám mục Rôma (4) và sau đó, trong Giáo hội Chính thống giáo nói chung, bởi Thượng phụ Constantinople: “Quyền tối thượng trong Giáo hội Chính thống giáo Hoàn vũ, vốn là quyền tối thượng danh dự theo bản chất của nó, chứ không phải quyền lực, rất quan trọng đối với chứng tá Chính thống giáo trong thế giới hiện đại” (5). Tuy nhiên, theo điều 28 của Chalcedon (không được Giáo hoàng Leo chấp nhận), trong cách hiểu Chính thống giáo, quyền tối thượng của các giáo phận Rôma và Constantinople dựa trên vị thế đế quốc của họ hơn là nguồn gốc tông đồ của họ (xem §46 ở trên).

77. ARCIC cũng dựa vào lập luận về truyền thống tông đồ khi suy tư về quyền tối thượng phổ quát của tòa giám mục Rôma: “Tòa giám mục duy nhất có bất cứ yêu sách nào về quyền tối thượng phổ quát và đã thực thi và vẫn thực thi quyền giám mục như vậy là tòa giám mục Rôma, thành phố nơi Phêrô và Phaolô qua đời. Có vẻ như thích hợp việc trong bất cứ sự hiệp nhất trong tương lai nào, quyền tối thượng phổ quát như đã được mô tả nên được nắm giữ bởi tòa giám mục đó” (ARCIC 1976, 23; xem thêm ARCIC 2018, 42; FO 2013 TCTCV, 55, cũng sử dụng lập luận này).

78. Tương tự như vậy, cuộc đối thoại Công Giáo-Chính thống giáo Cũ trong tuyên bố hiệp nhất năm 1983 đã khẳng định: “Giám mục Rôma được hưởng một vị trí danh dự như vậy bởi vì tòa giám mục Rôma đứng đầu trong trật tự các tòa giám mục: Rôma là thủ đô của đế quốc và Giáo hội của nó bảo tồn truyền thống tông đồ – vẫn không có bất cứ sự đổi mới nào; nó đã mang Tin mừng cứu rỗi đến với các dân tộc và quốc gia chưa từng nghe về Chúa Kitô và nó rất giàu có về đời sống Giáo hội và các công trình yêu thương. Vì vậy, Giám mục Rôma nắm giữ chức chủ tịch danh dự trong Giáo hội. Nhưng về mặt thẩm quyền giám mục, ngài không khác gì các giám mục anh em của mình” (trích dẫn trong OC–C 2009, Phụ lục văn bản 6).

79. Trong khi thừa nhận tầm quan trọng của các tòa đặc thù dựa trên truyền thống Tông đồ và thứ tự được ghi lại bởi các công đồng Chung đầu tiên (Ni-xê-a I, điều 6; Constantinople I, điều 2), các Giáo hội Chính thống giáo Đông phương, không giống như Chính thống giáo phương Đông, không công nhận một phẩm trật chuyên biệt giữa họ, vì họ không có một trung tâm hiệp thông phổ quát duy nhất, mà hoạt động trên cơ sở một mô hình độc lập và phổ quát, với đức tin tín lý chung'' (OO–C 2009, 53), và sự hiệp thông của họ được thiết lập mà "không có điểm tham chiếu trung tâm rõ ràng" (OO–C 2015, 71; xem bên dưới §§92–93).

80. Đối với một số hiệp thông phương Tây, lập luận về truyền thống tông đồ không có trọng lượng đáng kể và do đó họ không thấy lý do tại sao quyền tối thượng nhất thiết phải thuộc về các tòa đặc thù. Ví dụ, Liên đoàn Báp-tít Anh Quốc trong Phản hồi (1997) cho Ut unum sint nêu rõ: “Nếu Thánh Linh dẫn dắt các giáo hội hướng tới tính hợp đoàn của các nhà lãnh đạo tinh thần trong đó một sự lãnh đạo chính (được hiểu theo nghĩa là sự phục vụ chính) sẽ hữu ích cho đời sống của Giáo hội, chúng tôi không thấy lý do tại sao điều này phải gắn liền vĩnh viễn với bất cứ một trong những trung tâm lịch sử của chứng tá Kitô giáo. Thật vậy, nhu cầu học hỏi từ thừa tác vụ của các giáo hội nghèo, bị áp bức và bị thiệt thòi trên thế giới của chúng ta có thể lập luận ngược lại”. Tuy nhiên, câu trả lời tương tự vẫn thừa nhận: “Tuy nhiên, sự hiệp thông hoàn cầu như vậy của các giáo hội Kitô giáo khó có thể xảy ra nếu không có sự lãnh đạo có ảnh hưởng của Giám mục Rôma trong quá trình này, và ở mức độ này, chúng tôi đồng ý với việc áp dụng lời của Chúa Giêsu phán với Phê-rô: ‘khi con đã quay lại, hãy củng cố anh em mình’”. Một cách rõ ràng, tầm quan trọng dành cho sự phát triển lịch sử của Giáo hội như một dấu chỉ ý muốn thần thiêng đối với nó ảnh hưởng đến việc chấp nhận hoặc bác bỏ lập luận từ truyền thống tông đồ.

3.1.2. Lập Luận Giáo Hội Học: Quyền Tối Thượng Và Tính Đồng Nghị Ở Mỗi Bìnhh Diện Của Giáo Hội

81. Một số cuộc đối thoại đã tìm thấy sự biện minh cho việc thực thi quyền tối thượng phổ quát dựa trên sự công nhận rằng có sự phụ thuộc lẫn nhau giữa quyền tối thượng và tính đồng nghị ở mọi bình diện của đời sống Giáo hội: địa phương, khu vực và phổ quát. Đối thoại Công Giáo Lutheran–Rôma tại Hoa Kỳ đã xây dựng rõ ràng câu hỏi: “Nếu sự phụ thuộc lẫn nhau giữa cộng đoàn và thừa tác vụ thụ phong là đặc trưng của cấu trúc giáo hội ở bình diện địa phương, khu vực và quốc gia, thì tại sao sự phụ thuộc lẫn nhau như vậy lại không được tìm thấy ở bình diện phổ quát?” (L–C US 2004, 118). Tương tự như vậy, ARCIC lập luận rằng, “nếu ý muốn của Chúa về sự hiệp nhất trong tình yêu và chân lý của toàn thể cộng đồng Kitô giáo được hoàn thành, thì mô hình chung của các khía cạnh tối thượng và công đồng vốn bổ túc cho nhau này của episkope phục vụ koinonia của các giáo hội cần phải được hiện thực hóa ở bình diện phổ quát” (ARCIC 1976, 23). Nhóm Dombes cũng nêu ra câu hỏi tương tự: “Ở bính diện thể nhân, kinh nghiệm về thừa tác vụ của Lời Chúa và các bí tích trong Giáo hội địa phương, và việc chủ trì các hội đồng và công đồng dự ứng rằng bất cứ biểu thức hữu hình nào của Giáo hội phổ quát đều đòi hỏi một thừa tác vụ hiệp thông. Các Giáo hội Cải cách nên tự hỏi về những lý do cản trở họ, hiện tại, trong việc hình thành và công nhận một thừa tác vụ như vậy sẽ được thực hiện vì lợi ích của sự hiệp thông của toàn thể Giáo hội” (Dombes 1985, 157). Trên cơ sở của cùng một lập luận, quyền tối thượng ở bình diện phổ quát đã được công nhận là thuộc về bản chất của Giáo hội bởi một số cuộc đối thoại. Trên thực tế, cuộc đối thoại Lutheran-Công Giáo ở Đức đã có thể tuyên bố: “Một thừa tác vụ của giáo hội phổ quát cho sự hiệp nhất và chân lý của giáo hội tương ứng với bản chất và sứ mệnh của giáo hội, tự cấu thành ở bình diện địa phương, khu vực và phổ quát. Do đó, về nguyên tắc, một thừa tác vụ như vậy phải được coi là phù hợp một cách khách quan. Nó đại diện cho toàn bộ Kitô giáo và có nhiệm vụ mục vụ đối với tất cả các giáo hội đặc thù” (L–C Germ 2000, 196).

82. Song song với lập luận tông đồ, cuộc đối thoại quốc tế Chính thống giáo-Công Giáo cũng dựa trên lập luận giáo hội học này để suy tư. Theo lập luận này, các chiều kích tối thượng và đồng nghị của Giáo hội ở bình diện địa phương và khu vực cũng nên tồn tại ở bình diện phổ quát: “Quyền tối thượng ở mọi bình diện là một thực hành có nền tảng vững chắc trong truyền thống giáo luật của Giáo hội” (O–C 2007, 43). Tuy nhiên, Phản hồi của Tòa Thượng phụ Moscow đối với Văn kiện Ravenna nhấn mạnh tính khác biệt của quyền tối thượng ở mỗi bình diện: “Do bản chất của quyền tối thượng, hiện hữu ở nhiều bình diện khác nhau của trật tự giáo hội (giáo phận, địa phương và phổ quát) khác nhau, nên các chức năng của primus [người hàng đầu] ở các bình diện khác nhau không y như nhau và không thể chuyển từ bình diện này sang bình diện khác”. (3). Nhóm Thánh Irenaeus cũng lưu ý: “Có một sự tương tự nhưng không hoàn toàn y như nhau trong mối quan hệ giữa quyền tối thượng và tính đồng nghị ở các bình diện khác nhau của Giáo hội: địa phương, khu vực và hoàn vũ. Vì bản chất của quyền tối thượng và tính đồng nghị khác nhau ở mỗi bình diện, nên động lực giữa quyền tối thượng và tính đồng nghị cũng thay đổi theo” (Thánh Irenaeus 2018, 16.4). Tương tự như vậy, cuộc đối thoại Chính thống giáo Đông phương–Công Giáo khẳng định: “Tính đồng nghị/tính công đồng và các quyền tối thượng được thể hiện trong những cách khác nhau ở những bình diện khác nhau trong đời sống của Giáo hội.

Những cách thức và bình diện này đã được diễn đạt khác nhau trong truyền thống Công Giáo và Chính thống giáo phương Đông, cả trong quá khứ lẫn hiện tại” (OO–C 2009, 46).

83. Đối thoại Chính thống giáo–Công Giáo nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kế vị tông đồ trong cách hiểu về quyền tối thượng và tính đồng nghị. Hội nghị tham vấn thần học Chính thống giáo–Công Giáo Bắc Mỹ đã lần đầu tiên giải quyết vấn đề về quyền tối thượng trong tài liệu năm 1986 có tựa đề Tính Tông truyền là Hồng ân của Chúa trong Đời sống Giáo hội, trong đó nhấn mạnh những cách tiếp cận khác nhau của Chính thống giáo và Công Giáo đối với mối quan hệ giữa tính tông truyền và ‘tính Phê-rô [petrinity]’: “Trong các giáo hội Đông phương, thường nhấn mạnh đến sự viên mãn của tính tông truyền của mỗi giáo hội và, thực sự, là ‘tính Phê-rô [petrinity]’, và đã có sự chỉ trích đối với Giáo hội Rôma vì có xu hướng bản địa hóa những phẩm chất này trong một tòa duy nhất.” Tuy nhiên, cùng một ủy ban lưu ý rằng “hình ảnh Phêrô trong hợp đoàn tông đồ được phản ảnh trong đời sống của mỗi giáo hội địa phương; nó cũng được phản ảnh trong sự hiệp thông hữu hình của tất cả các giáo hội địa phương. Không có sự đối lập nội tại nào giữa hai cách tiếp cận này” (O–C US 1986, 12). Tương tự như vậy, cuộc đối thoại quốc tế Chính thống giáo–Công Giáo đã nêu ra vấn đề về quyền tối thượng trong bối cảnh suy tư của nó về việc kế vị tông đồ, lưu ý rằng tính tông truyền “có nghĩa nhiều hơn việc chỉ là sự chuyển giao quyền lực”, vì “đó là sự kế vị trong một Giáo hội làm chứng cho đức tin tông truyền, trong sự hiệp thông với các Giáo hội khác, những người làm chứng cho cùng một đức tin tông truyền” (O–C 1988, 46). Ủy ban cũng nhận thấy rằng “chính trong góc nhìn hiệp thông giữa các Giáo hội địa phương này, mà có vấn đề quyền tối thượng trong Giáo hội nói chung và, nói riêng, quyền tối thượng của giám mục Rôma” (id., 55). Tương tự như vậy, cuộc đối thoại quốc tế Chính thống giáo Đông phương - Công Giáo liên kết rõ ràng tính đồng nghị/tính hợp đoàn và quyền tối thượng với việc kế vị tông đồ: “Vì các giám mục là những người kế vị ‘các tông đồ’, thừa hưởng chức tông đồ của ‘Mười hai tông đồ’, nên chức giám mục trong Giáo hội mang tính hợp đoàn theo bản chất của nó.” (OO–C 2009, 37). Câu hỏi về sự kế vị tông đồ cũng được đề cập trong một số cuộc đối thoại với các cộng đồng Kitô giáo phương Tây, đạt được các mức độ đồng thuận khác nhau, nhưng nêu ra một số vấn đề cơ bản khác, chẳng hạn như sự hiểu biết về bí tích của Giáo hội và các thừa tác vụ của Giáo hội. (18)

3.1.3. Một Lập Luận Thực Dụng: Nhu Cầu Phải Có Một Thừa Tác Vụ Hiệp Nhất Ở Bình Diện Hoàn Cầu

84. Một lập luận khác, mang tính thực dụng hơn, dựa trên cảm thức ngày càng tăng về sự cần thiết của một thừa tác vụ hiệp nhất ở bình diện hoàn cầu. Cảm thức này dựa trên cả những xem xét nội bộ và truyền giáo. Trong một thế giới ngày càng hoàn cầu hóa, nhiều cộng đồng Kitô giáo từ lâu vốn ưu tiên chiều kích địa phương, ngày càng cảm thấy cần phải có một biểu thức hữu hình về hiệp thông ở bình diện hoàn cầu. Phần lớn các cộng đồng, liên đoàn và liên minh hoàn cầu, cũng như các tổ chức đại kết, đã được thành lập trong thế kỷ trước để duy trì và củng cố mối quan hệ hiệp nhất ở bình diện khu vực và hoàn cầu. Nhu cầu về các công cụ hiệp thông hoàn cầu này cũng được cảm nhận để giải quyết những bất đồng giữa các Giáo hội địa phương liên quan đến các vấn đề mới và có khả năng gây chia rẽ trong một thế giới hoàn cầu hóa. Ví dụ, ARCIC mô tả một loạt các câu hỏi tạo ra “một tình huống mới do các công cụ hiệp thông ở bình diện hoàn cầu dường như không có khả năng giải quyết các vấn đề hiện tại và tìm ra các quy trình hiệp nhất […] để kiềm chế xung đột sao cho không dẫn đến sự suy yếu hơn nữa của hiệp thông” (ARCIC 2018, 77).

85. Tình hình này đã tạo ra một sự cởi mở mới cho một thừa tác vụ hiệp nhất ở bình diện hoàn cầu. Như Đối thoại Lutheran–Công Giáo Rôma ở Hoa Kỳ đã nêu từ năm 1973: “Những người Lutheran ngày càng nhận ra nhu cầu về một thừa tác vụ phục vụ cho sự hiệp nhất của giáo hội hoàn cầu. Họ thừa nhận rằng, để thực hiện thừa tác vụ này, các định chế có nguồn gốc từ lịch sử nên được xem xét nghiêm túc” (L–C US 1973, 28). ARCIC cũng đã nhận ra rất sớm nhu cầu về một “giám sát của một vị giáo chủ hoàn cầu”:

“Theo tín lý Kitô giáo, sự hiệp nhất trong chân lý của cộng đồng Kitô giáo đòi hỏi biểu thức hữu hình. Chúng tôi nhất trí rằng biểu thức hữu hình như vậy là ý muốn của Thiên Chúa và việc duy trì sự hiệp nhất hữu hình ở bình diện hoàn cầu bao gồm sự giám sát của một vị giáo chủ hoàn cầu” (ARCIC 1981 Eluc., 8). Cùng một ủy ban đã công nhận vào năm 1982 rằng “quyền tối thượng, như một trọng tâm trong koinonia, là một sự đảm bảo rằng những gì [tất cả những người thực hành episcope] dạy và làm đều phù hợp với đức tin của các tông đồ” (ARCIC 1982, Dẫn nhập 6). Theo tinh thần tương tự, phản hồi của Giáo hội Anh đối với Ut unum sint đã nêu rằng “ngày càng nhiều [người Anh giáo] trải nghiệm của họ về Cộng đồng Anh giáo đang dẫn họ đến việc đánh giá cao nhu cầu thích đáng, bên cạnh các thừa tác vụ cộng đồng và hợp đoàn, cần một dịch vụ bản vị về sự hiệp nhất trong đức tin” (44). Trong tài liệu Cùng nhau Bước đi trên Đường, theo phương pháp đại kết tiếp thu, các thành viên Anh giáo của ARCIC hỏi làm thế nào hiệp thông của họ có thể học hỏi từ một số khía cạnh của việc thực hành Công Giáo về quyền tối thượng trên toàn thế giới, đặc biệt là liên quan đến vai trò của Tòa Canterbury và thừa tác vụ của Tổng giám mục của nó trong Hiệp thông Anh giáo (ARCIC 2018, 145).

86. Song song với những diễn biến nội bộ này, nhận thức về nhu cầu phải có một thừa tác vụ hiệp nhất cũng dựa trên những cân nhắc truyền giáo. Trong tài liệu năm 2018 của họ, mặc dù không chuyên biệt đề cập đến quyền tối thượng hoàn cầu, ARCIC vẫn nhấn mạnh tầm quan trọng của các công cụ hiệp thông hoàn cầu hữu hiệu để Giáo hội có thể hoàn thành sứ mệnh của mình, bởi vì nếu không có những điều này, “có thể không có đủ khoảng cách quan trọng khỏi nền văn hóa địa phương đang thịnh hành” (ARCIC 2018, 154).

87. Do những cân nhắc bên trong và bên ngoài này, một số cuộc đối thoại hình dung khả thể tiếp nhận thừa tác vụ của Giám mục Rôma. Ngay từ năm 1972, Ủy ban Quốc tế về Hiệp nhất Lutheran–Công Giáo Rôma đã công nhận rằng theo quan điểm của phái Luther, “thừa tác vụ của giáo hoàng như một dấu hiệu hữu hình của sự hiệp nhất của các giáo hội do đó không bị loại trừ bao lâu nó còn phụ thuộc vào quyền tối thượng của tin mừng bằng cách diễn giải lại thần học và tái cấu trúc thực tế” (L–C 1972, 66). Cùng một ủy ban đã trích dẫn những dòng này vào năm 1981, đồng thời nhin nhận rằng “trong nhiều cuộc đối thoại khác nhau, khả thể bắt đầu xuất hiện là thừa tác vụ Phêrô của Giám mục Rôma cũng không cần bị người Luther loại trừ như một dấu hiệu hữu hình của sự hiệp nhất của giáo hội như một toàn thể” (L–C 1981, 73). Tuyên bố về Con đường của Ủy ban các Vấn đề Đại kết và Liên tôn của Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ và của Giáo hội Luther Tin lành tại Hoa Kỳ, khi xem xét “tính hợp thời đặc biệt trong thời điểm văn hóa của chúng ta”, nêu rằng “trong thời đại nhận thức hoàn cầu ngày càng gia tăng và truyền thông tức thời qua nhiều ranh giới chia rẽ, giám mục Rôma làm chứng cho thông điệp Ki-tô giáo trên thế giới rộng lớn hơn thông qua việc truyền giáo, quan hệ liên tôn, và cổ vũ công lý xã hội và chăm sóc tạo vật” (L–C US 2015, IV B 6). ARCIC thừa nhận rằng “những nhu cầu cấp thiết của đời sống giáo hội đòi hỏi phải thực thi một hoạt động giám sát chuyên biệt để phục vụ toàn thể Giáo hội” (ARCIC 1999, 46) và tiếp tục gợi ý rằng những người Anh giáo có thể chấp nhận thừa tác vụ của Giám mục Rôma, mặc dù được thực hiện theo cách thức hợp đoàn và đồng nghị, và duy trì sự đa dạng hợp pháp, “ngay cả trước khi các giáo hội của chúng ta được hiệp thông trọn vẹn” (id., 60). Thật vậy, “một số khó khăn sẽ không được giải quyết hoàn toàn cho đến khi có một sáng kiến thực tế được thực hiện và hai Giáo hội của chúng ta cùng nhau sống một cách hiển hiện hơn trong một koinonia” (ARCIC 1981, 33).

______________________________________________

(18). Về các thỏa thuận khác nhau về sự kế vị tông đồ và các vấn đề cần giải quyết, xem: Walter Kasper, Harvesting the Fruits. Basic Aspects of Christian Faith in Ecumenical Dialogue [Thu hoạch Hoa trái. Các Khía cạnh Căn bản của Đức tin Ki-tô giáo trong Đối thoại Đại kết] 2009, London–New York, Continuum International Publishing Group, nn. 43–44.

Còn nữa