3.2.6. Các Công Đồng Chung: Sự Hợp Tác Của Giám Mục Rôma
104. Các biểu thức hiệp thông hảo hạng (par excellence) của thiên niên kỷ đầu tiên ở bình diện hoàn cầu là các công đồng chung. Các công đồng này mang tính chung “không chỉ vì chúng tập hợp các giám mục từ mọi khu vực và đặc biệt là các giám mục của năm tòa chính”, mà còn “vì các quyết định tín lý long trọng của chúng và các công thức đức tin chung của chúng, đặc biệt là về các điểm quan trọng, mang tính ràng buộc đối với tất cả các Giáo hội và tất cả các tín hữu, trong mọi thời đại và mọi nơi chốn” (O–C 2007, 35).
105. Văn kiện Ravenna công nhận: “Mặc dù giám mục Rôma không triệu tập các công đồng chung của những thế kỷ đầu và không bao giờ đích thân chủ trì chúng, nhưng ngài vẫn tham gia chặt chẽ vào quá trình ra quyết định của các công đồng” (O–C 2007, 42). Tương tự như vậy, Văn kiện Chieti xác định vai trò cụ thể của Giám mục Rôma, người, mặc dù không có mặt trực tiếp tại bất cứ công đồng nào trong số những công đồng đó, nhưng được các đại diện của mình đại diện hoặc đồng ý với các kết luận của công đồng sau khi sự việc xảy ra. Chieti tham khảo các tiêu chuẩn để tiếp nhận một công đồng là chung (ecumenic) được mô tả bởi Công đồng chung thứ Bảy (Ni-xê-a II, 787), cụ thể là, “sự đồng thuận (symphonia) của những người đứng đầu các giáo hội, sự hợp lực (synergeia) của giám mục Rôma, và sự đồng thuận của các thượng phụ khác (symphronountes)” (O–C 2016, 18).
106. Vẫn còn những câu hỏi liên quan đến sự hiểu biết chung về Synergeia (hợp lực] của Giám mục Rôma, và tại sao và ở mức độ nào nó khác với symphonia và symphronountes của những người đứng đầu các Giáo hội và thượng phụ khác. Thật vậy, “không có mô hình duy nhất nào có vẻ được chấp nhận rộng rãi. Bên cạnh thực tế là bảy công đồng chung đều được Rôma và các tòa thượng phụ Đông phương công nhận, mối tương quan giữa quyền tối thượng của giám mục Rôma và thẩm quyền của một công đồng chung vẫn chưa được xác định” (Thánh I-rê-nê 2018, 7.11). Tuy nhiên, tất cả đều đồng ý rằng “sự tiếp nhận của toàn thể Giáo hội luôn là tiêu chuẩn cuối cùng cho tính chung của một công đồng” (O–C 2016, 18, xem ở trên §72[4]). Khi hình dung vai trò của Giám mục Rôma có thể được hiện thực hóa như thế nào trong một Giáo hội thống nhất, cuộc tham vấn Chính thống giáo-Công Giáo Bắc Mỹ cho rằng “vai trò phổ quát của ngài cũng sẽ được phát biểu trong việc triệu tập và chủ trì các công đồng thường kỳ của các thượng phụ của tất cả các Giáo hội, và các công đồng chung, khi chúng nên diễn ra” (O–C US 2010, 7 d). Tương tự như vậy, cuộc đối thoại Lutheran–Công Giáo ở Úc, công nhận rằng “giám mục Rôma có vai trò đặc biệt trong việc thúc đẩy sự hiệp nhất của giáo hội với tư cách là dân Chúa và Thân thể Chúa Kitô”, khẳng định rằng “trong một giáo hội hòa giải […], giáo hoàng có thể thực hiện điều này bằng cách triệu tập và chủ trì các thượng hội đồng, để toàn thể giáo hội có thể xem xét các vấn đề và thách thức mà mình phải đối mặt và tìm kiếm các phản ứng mục vụ phù hợp. Trong bối cảnh này, đôi khi có thể khẳng định lại học thuyết của giáo hội hoặc tìm ra những cách mới để diễn đạt nó trong một bối cảnh mới” (L–C Aus 2016, 150, 152).
3.2.7. Tính Đa Dạng Của Các Mô Hình Giáo Hội
107. Cuối cùng, tính đa dạng của các mô hình giáo hội của thiên niên kỷ đầu tiên thường được nhấn mạnh. Cuộc đối thoại Chính thống giáo Bắc Mỹ–Công Giáo, trong phản hồi của mình đối với Văn kiện Chieti, nhấn mạnh rằng “Giáo hội sơ khai có sự đa dạng về các mô hình tổ chức giáo hội, đáp ứng với phong tục và nhu cầu địa phương” (O–C US 2017). Ví dụ, các Giáo hội Alexandria và Rôma có các nguyên tắc tổ chức nội bộ cụ thể khác với các giáo hội khác: “Đây không nhất thiết là một hoạt động chia rẽ Giáo hội. Một sự đa dạng nhất định không chỉ được mong đợi trong đời sống Giáo hội, mà còn được hoan nghênh như một điều lành mạnh” (id.). Như Công đồng Vatican II khẳng định liên quan đến các Giáo hội Đông phương: “Không phải là một trở ngại đối với sự hiệp nhất của Giáo hội, một sự đa dạng nhất định về phong tục và nghi lễ chỉ làm tăng thêm sự huy hoàng của Giáo hội và giúp ích rất nhiều trong việc thực hiện sứ mệnh của Giáo hội” (UR 16).
Trong bối cảnh này, và liên quan đến phụ đề của Văn kiện Chieti (Towards a Common Understanding in Service to the Unity of the Church [Hướng tới sự hiểu biết chung để phục vụ cho sự hiệp nhất của Giáo hội]), cuộc đối thoại Chính thống giáo–Công Giáo Bắc Mỹ đặt câu hỏi: “Liệu chúng ta có cần thiết, hay thậm chí là mong muốn, có những hiểu biết hoàn toàn giống hệt nhau không? Có lẽ mô hình đại kết về sự đồng thuận dị biệt hóa có ích ở đây” (id.). Đây là phương pháp luận được cuộc đối thoại quốc tế Lutheran–Công Giáo sử dụng trong Tuyên bố chung về Tín lý Công chính hóa. ARC Canada đề xuất một Tuyên bố chung thiết lập sự đồng thuận cơ bản về thẩm quyền và thừa tác vụ của Giám mục Rôma theo mô hình Tuyên bố chung về Tín lý Công chính hóa và tuân theo phương pháp luận của Tuyên bố chung về Tín lý Công chính hóa (ARC Canada 2003, 4.1).
3.3. Một Số Nguyên Tắc Để Thực Hiện Quyền Tối Thượng Trong Thế Kỷ 21
108. Nếu lịch sử của thiên niên kỷ đầu tiên là “quyết định”, thì, tuy nhiên, thiên niên kỷ đầu tiên không nên được lý tưởng hóa. Sự tương phản thông thường giữa các mối quan hệ giữa Giáo hội Đông-Tây trong thiên niên kỷ thứ nhất và thứ hai tự nó đã quá đơn giản. Ví dụ, Nhóm Thánh I-rê-nê đưa ra một cuộc khảo sát lịch sử tinh tế hơn về năm giai đoạn: thế kỷ thứ 1–8; thế kỷ thứ 9–15; thế kỷ thứ 16–18; thế kỷ thứ 19; thế kỷ thứ 20 và 21. Hơn nữa, người ta thường nhận thấy rằng rất khó để nói về một Giáo hội “không chia cắt” trong thiên niên kỷ thứ nhất, khi nghĩ đến nhiều giai đoạn chia rẽ giữa Rôma và Constantinople (xem Thánh I-rê-nê 2018, 5.3), nhưng cũng có cả những cuộc ly giáo bi thảm vào thế kỷ thứ 5 sau các công đồng Ê-phê-sô và Can-xê-đoan. Thật vậy, “quá khứ không nên được lý tưởng hóa hay hạ thấp, và cần phải phân biệt đúng đắn giữa các lý tưởng do các giáo hội phát biểu và các thực tại cụ thể của con người trong đó các lý tưởng đó được đem ra sống” (Thánh I-rê-nê 2018, 17.3).
109. Hơn nữa, quyền tối thượng ở bình diện phổ quát cũng nên tôn vinh những diễn biến của thiên niên kỷ thứ hai trong việc ứng phó với những thách thức của thế kỷ 21: “Các cấu trúc đã phát triển trong và cho thiên niên kỷ thứ nhất không thể chỉ được tái tạo trong các hoàn cảnh khác nhau vào đêm trước thiên niên kỷ thứ ba. Trong khi trung thành với quá khứ, chúng ta cũng phải trung thành với bối cảnh hiện tại và những đòi hỏi của cuộc sống chung, chứng tá và phục vụ ngày nay” (Phản hồi của Giáo hội Anh đối với UUS, 50). Trong một Giáo hội tái hiệp nhất, “vai trò của giám mục Rôma sẽ phải được xác định cẩn thận, vừa tiếp nối các nguyên tắc cấu trúc cổ xưa của Kitô giáo vừa đáp ứng nhu cầu về một thông điệp Kitô giáo thống nhất trong thế giới ngày nay” (O–C US 2010, 7).
110. Các phản hồi cho Ut unum sint và các tài liệu đối thoại đã xác định một số nguyên tắc và khuôn khổ để thực hiện quyền tối thượng trong thế kỷ 21. Ví dụ, cuộc đối thoại Lutheran–Công Giáo ở Hoa Kỳ đã nhất trí vào năm 1973 về ba “chuẩn mực để đổi mới” để “giáo hoàng có thể phục vụ tốt hơn cho giáo hội như một toàn thể”: nguyên tắc đa dạng hợp pháp; nguyên tắc hợp đoàn; và nguyên tắc bổ trợ (L–C US 1973, 22–25).
Cuộc tham vấn Chính thống giáo-Công Giáo Bắc Mỹ cũng xác định một số “đặc điểm” cho “hình thái hiệp thông” trong tương lai giữa Chính thống giáo và Công Giáo, đặc biệt liên quan đến vai trò của giáo hoàng (O–C US 2010, 6–7).
111. Hai khuôn khổ lặp lại xuất hiện từ các cuộc đối thoại thần học và phản hồi cho Ut unum sint, có thể giúp suy tư về việc thực thi quyền tối thượng trong thế kỷ 21: sự sắp xếp cộng đồng, hợp đoàn và cá vịcủa Giáo hội; và sự điều chỉnh giữa các bình diện địa phương, khu vực và hoàn cầu.
3.3.1. Sự Sắp Xếp Cộng Đồng, Hợp Đoàn Và Cá Vị Của Giáo Hội
a. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa tính tối thượng và tính đồng nghị
112. Hầu hết các phản hồi và tài liệu đối thoại đều nhất trí rõ ràng rằng quyền tối thượng nên được thực hiện trong một Giáo hội công đồng/ đồng nghị đích thực. (22) Như đã thấy ở trên, các cuộc đối thoại Chính thống giáo–Công Giáo trong ba mươi năm qua, được truyền cảm hứng từ Điều Giáo luật Tông đồ 34, nhấn mạnh sự phụ thuộc lẫn nhau của quyền tối thượng và tính công đồng, bao gồm cả ở nình diện phổ quát của Giáo hội. Nguyên tắc này lần đầu tiên được Hội đồng Tham vấn Chính thống giáo–Công Giáo Bắc Mỹ phát biểu, nêu rằng “hai định chế, phụ thuộc lẫn nhau và hạn chế lẫn nhau, đã gây ảnh hưởng mạnh nhất đến việc duy trì sự hiệp thông có trật tự của các Giáo hội kể từ thời các tông đồ, là việc tập hợp các giám mục và các nhà lãnh đạo địa phương được bổ nhiệm khác trong các thượng hội đồng, và quyền tối thượng hoặc quyền tối thượng được công nhận của một giám mục trong số các đồng nghiệp giám mục của mình” (O–C US 1989, 6). Tương tự như vậy, luận điểm cơ bản của Văn kiện Ravenna là “quyền tối thượng và tính công đồng phụ thuộc lẫn nhau. Đó là lý do tại sao tính tối thượng ở các bình diện khác nhau của đời sống Giáo hội, địa phương, khu vực và phổ quát, luôn phải được xem xét trong bối cảnh tính công đồng, và tính công đồng cũng vậy trong bối cảnh quyền tối thượng” (O–C 2007, 43). Tương tự như vậy, nhưng sử dụng khái niệm đồng nghĩa là ‘tính đồng nghị [synodality]’, Nhóm St I-rê-nê khẳng định: “Cả về mặt thần học và giáo luật, [….] không thể giải quyết vấn đề về quyền tối thượng mà không xem xét đến tính đồng nghị, hoặc bỏ qua quyền tối thượng khi giải quyết tính đồng nghị” (St I-rê-nê 2018, 16). Trong sự phụ thuộc lẫn nhau này, “Lịch sử Giáo hội cho thấy hai xu hướng giáo hội học: chủ yếu, nhưng không duy nhất, là tính đồng nghị ở phương Đông, và chủ yếu, nhưng không duy nhất, là tính tối thượng ở phương Tây; tuy nhiên, chúng có thể cùng hiện hữu trong một căng thẳng sáng tạo”. Do đó, “bất cứ việc khôi phục nào về sự hiệp thông trọn vẹn giữa các Giáo Hội Công Giáo và Chính thống giáo sẽ đòi hỏi, cả hai bên, phải củng cố các cấu trúc tính đồng nghị và một sự hiểu biết mới về quyền tối thượng phổ quát - cả hai đều phục vụ cho sự hiệp thông giữa các giáo hội” (St I-rê-nê 2018, 16. 7). Việc thực thi quyền tối thượng theo lối đồng nghị là cần thiết để có sự hiểu biết chung về việc thực thi thừa tácc vụ của Giám mục Rôma: “Theo giáo huấn của cả hai công đồng Vatican, giám mục Rôma được mọi người hiểu là chỉ có thẩm quyền trong bối cảnh đồng nghị /hợp đoàn: với tư cách là thành viên cũng như người đứng đầu đoàn giám mục, là thượng phụ cao cấp trong số các giáo chủ của các Giáo hội, và đầy tớ phục vụ cho sự hiệp thông hoàn vũ” (O–C US 2010, 7b).
113. Ngay từ rất sớm trong quá trình hoạt động, ARCIC cũng đã nhiều lần nhấn mạnh sự cần thiết của việc cân bằng thích đáng giữa quyền tối thượng và tính công đồng ở mỗi bình diện của Giáo hội: “Mặc dù quyền tối thượng và tính công đồng là những yếu tố bổ sung cho nhau của chức giám sự (episcope), nhưng thường xảy ra tình trạng một bên được nhấn mạnh mà không quan tâm đến bên kia, thậm chí đến mức mất cân bằng nghiêm trọng. Khi các giáo hội bị tách biệt khỏi nhau, mối nguy hiểm này đã tăng lên.
Sự hiệp nhất của các giáo hội đòi hỏi phải có sự cân bằng thích đáng giữa hai điều này với sự tham gia có trách nhiệm của toàn thể dân Chúa” (ARCIC 1976, 22). Mối quan hệ giữa quyền tối thượng và tính công đồng gắn liền với các nguyên tắc hiệp nhất và đa dạng trong Giáo hội: cần có “sự cân bằng thích đáng giữa quyền tối thượng phục vụ cho sự hiệp nhất và tính công đồng duy trì sự đa dạng chính đáng của sự hiệp nhất của tất cả các giáo hội” (ARCIC 1981 Eluc., 8).
b. “Tất cả”, “một số” và “một”
114. Trong suy tư về giáo hội học gần đây, một sự phân biệt rõ ràng hơn đã được thực hiện giữa hai khía cạnh của tính đồng nghị: tính hợp đoàn của giám mục và sự tham gia của toàn thể dân Chúa. Về điều đầu, ARCIC viết: “Quyền tối thượng dành cho một giám mục ngụ ý rằng, sau khi tham khảo ý kiến của các giám mục đồng cấp, ngài có thể nói thay mặt họ và bày tỏ suy nghĩ của họ” (ARCIC 1976, 20) và “một giám mục thực thi thừa tác vụ của mình không phải một cách biệt lập mà trong sự liên kết hợp đoàn với các giám mục anh em của mình” (id., 21). Phản hồi của Hội đồng giám mục của Giáo hội Thụy Điển đối với Ut unum sint cũng nhấn mạnh nhu cầu về tính hợp đoàn của giám mục: “Để đạt được tiến bộ, khái niệm về tính hợp đoàn có lẽ phải được phát triển hơn nữa, cả trong Giáo Hội Công Giáo Rôma và đại kết. Điều này phải được nhấn mạnh so với chế độ giáo hoàng tập quyền mạnh mẽ, đặc biệt là trong quá khứ. Nói cách khác, mọi giám mục và toàn bộ hợp đoàn giám mục đều có trách nhiệm đối với toàn thể Giáo Hội Công Giáo Rôma – cùng với vị Giáo hoàng. Tất cả các giám mục có thể họp lại để họp một công đồng hoặc một thượng hội đồng giám mục hoàn cầu, nhưng không thể không có Đức Giáo Hoàng” (Phản hồi cho Thông điệp Ut unum sint, 12).
115. Thuật ngữ tính đồng nghị có thể được sử dụng theo nghĩa rộng hơn để chỉ sự tham gia tích cực vào đời sống giáo hội của tất cả các tín hữu trên cơ sở phép rửa của họ. Chính trong “nghĩa toàn diện hơn này, ám chỉ tất cả các thành viên của Giáo hội” mà khái niệm này được Đối thoại quốc tế Chính thống giáo–Công Giáo sử dụng: “Trước hết, chúng ta sẽ nói về tính công đồng như biểu thị rằng mỗi chi thể của Thân thể Chúa Kitô, nhờ phép rửa, có vị trí và trách nhiệm thích đáng của mình trong koinonia (communio trong tiếng Latin) Thánh thể” (O–C 2007, 5). Sự hiểu biết này dựa trên những suy tư giáo hội học về cảm thức đức tin của tất cả những người đã chịu phép rửa tội (sensus fidelium): “Toàn thể cộng đồng và mỗi người trong đó đều mang ‘lương tâm của Giáo hội’ (ekklesiastike syneidesis), như thần học Hy Lạp gọi, là sensus fidelium theo thuật ngữ tiếng Latinh”. Do đó, “tất cả các tín hữu (và không chỉ các giám mục) đều chịu trách nhiệm đối với đức tin đã tuyên xưng khi chịu phép rửa” (id. 7). Sự hiểu biết rộng hơn này về tính đồng nghị như sự tham gia của toàn thể dân Chúa gần đây đã được gọi là khía cạnh “cộng đồng” [communal] hoặc “duy cộng đồng” [communitarian].
116. Phù hợp với sự phân biệt này giữa các khía cạnh khác nhau của tính đồng nghị, một số cuộc đối thoại thần học xác định ba chiều kích bổ sung của Giáo hội: cộng đồng (“tất cả”), hợp đoàn (“một số”) và cá vị (“một”). Ngay từ năm 1927, Hội nghị Thế giới đầu tiên về Đức tin và Trật tự tại Lausanne đã công nhận rằng các hệ thống ‘giám mục’, ‘linh mục’ và ‘giáo đoàn’ ‘phải có một vị trí thích hợp trong trật tự cuộc sống của một Giáo hội tái hiệp nhất”. Theo thời gian, ba chiều kích này – sử dụng các thuật ngữ khác nhau – được xác định là những khía cạnh thiết yếu của bản thân tính đồng nghị: “Trong suốt chiều dài lịch sử, tính đồng nghị của Giáo hội đã được phục vụ thông qua thẩm quyền công đồng, hợp đoàn và tối thượng” (ARCIC 1999, 45). Các truyền thống Kitô giáo khác nhau có thể được coi là ưu tiên một chiều kích hơn các chiều kích khác: Công Giáo chiều kích cá vị [personal], Chính thống giáo chiều kích hợp đoàn và Cải cách chiều kích cộng đồng.
117. Đề cập đến hội nghị Lausanne, năm 1982, Ủy ban Đức tin và Trật tự đã áp dụng ba chiều kích này vào thừa tác vụ thụ phong: “Thừa tác vụ thụ phong nên được thực hiện theo cách cá vị, hợp đoàn và cộng đồng. Nó nên mang tính cá vị vì sự hiện diện của Chúa Kitô giữa dân Người có thể được chỉ ra một cách hữu hiệu nhất bởi người được thụ phong để công bố Tin mừng và kêu gọi cộng đồng phục vụ Chúa trong sự hiệp nhất của cuộc sống và chứng tá. Nó cũng phải mang tính hợp đoàn, vì cần có một hợp đoàn các thừa tác viên thụ phong chia sẻ nhiệm vụ chung là đại diện cho các mối quan tâm của cộng đồng. Cuối cùng, mối quan hệ mật thiết giữa các thừa tác viên thụ phong và cộng đồng phải tìm được biểu thức trong chiều kích cộng đồng, nơi mà việc thực thi thừa tác vụ thụ phong bắt nguồn từ đời sống của cộng đồng và đòi hỏi sự tham gia hữu hiệu của cộng đồng vào việc khám phá ý muốn của Thiên Chúa và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần” (FO 1982 BEM, Mục vụ, 26, Bình luận).
Sau đó, lý luận này đã được phát triển bởi các cuộc đối thoại khác nhau như là nguyên tắc chỉ đạo của một thừa tác vụ hiệp nhất:
“Sự hoán cải của Giáo Hội Công Giáo sẽ bao gồm việc duy trì mối quan hệ cân bằng giữa các chiều kích cộng đồng, hợp đoàn và cá vị của thừa tác vụ đó; thực sự, chiều kích sau chỉ có thể được thực thi nếu nó được thực hiện, có thể nói như vậy, bởi hai chiều kích kia” (Dombes 1985, 134, xem thêm 9; xem thêm L–C Germ 2000, 188).
118. Những xem xét đại kết này đã được tiếp nhận trong giáo huấn Công Giáo gần đây. Trong tài liệu về Tính Đồng nghị trong Đời sống và Sứ mệnh của Giáo hội (2018), Ủy ban Thần học Quốc tế nhận ra trong ba chiều kích này những khía cạnh cơ bản của một nền thần học về tính đồng nghị: “Tầm nhìn giáo hội học này mời chúng ta diễn đạt sự hiệp thông đồng nghị theo nghĩa ‘tất cả’, ‘một số’ và ‘một’. Ở nhiều bình diện và hình thức khác nhau, như các Giáo hội địa phương, các nhóm Giáo hội địa phương theo khu vực và Giáo hội hoàn vũ, tính đồng nghị liên quan đến việc thực hiện sensus fidei của universitas fidelium (tất cả), chức năng lãnh đạo của đoàn Giám mục, mỗi giám mục có linh mục đoàn của mình (một số), và chức năng hiệp nhất của Giám mục Rôma (một). Do đó, tính năng động của tính đồng nghị kết hợp với khía cạnh cộng đồng bao gồm toàn thể dân Chúa, chiều kích hợp đoàn là một phần của việc thực thi chức năng giám mục và chức năng tối thượng của Giám mục Rôma” (Ủy ban Thần học Quốc tế 2018, 64). Đề cập đến tài liệu này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã khẳng định rằng “tính đồng nghị theo nghĩa rộng có thể được coi là sự kết hợp của ba chiều kích: ‘tất cả’, ‘một số’ và ‘một’”. Trong tầm nhìn này, “thừa tác vụ tối thượng là một yếu tố nội tại của động lực tính đồng nghị, cũng như khía cạnh duy cộng đồng bao gồm toàn thể dân Chúa và chiều kích hợp đoàn là một phần của việc thực thi thừa tác vụ giám mục”. (23) Theo quan điểm như vậy, tính đồng nghị không nên được coi là một đối trọng cạnh tranh với quyền tối thượng, cũng không chỉ là các khía cạnh hợp đoàn hoặc cộng đồng của Giáo hội, mà là một động lực bao gồm trong chính nó các chiều kích cá vị, hợp đoàn và cộng đồng.
___________________________________________________
(22). Các tài liệu Đối thoại thường sử dụng “tính công đồng” và “tính đồng nghị” thay thế cho nhau (xem ví dụ O–C 2016, 3; O–C 2007, 5–11; OO–C 2009, 43–46), các tài liệu gần đây nhất ủng hộ “tính đồng nghị”. Tài liệu Nghiên cứu này cũng ủng hộ thuật ngữ “tính đồng nghị”, trừ khi đề cập đến các tài liệu sử dụng “tính công đồng”.
23. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Diễn văn trước Nhóm công tác chung Chính thống giáo-Công Giáo Thánh I-rê-nê, 7 tháng 10 năm 2021